Bản án 33/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12/4/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2019/TLST-HS ngày 30/01/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/QĐXXST-HS ngày 19/3/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2019/QĐ-PT ngày 2/4/2019 và thông báo số 01/TB ngày 8/4/2019 đối với bị cáo:

Hoàng Viết A (tên gọi khác: P) sinh ngày 09/01/2001, tại Đồng Nai. HKTT: khu phố 2, phường Phú Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12. Dân tộc: Nùng, Giới tính: Nam, Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Hoàng Viết B, sinh năm 1963, con bà: Nguyễn Thị Tuyết C, sinh năm 1970; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 29/10/2018 đến nay. ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa ).

*Người đại diện hợp pháp của bị cáo A:

1/Ông Hoàng Viết B, sinh năm 1963 (Vắng mặt)

2/Bà Nguyễn Thị Tuyết C, sinh năm 1970 (Có mặt)

Cùng địa chỉ: khu phố 2, phường Phú Bình, thị xã Long Khánh, Đồng Nai.

 *Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Bà Lê D, sinh năm 1969 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

* Người bị hại: Ông Phan Vũ G, sinh năm 1998 (Có mặt)

Địa chỉ: tổ 12, Khu phố 2, phường Phú Bình, thị xã Long Khánh, Đồng Nai.

*Người làm chứng:

1. Ngô Thị Thu J, sinh năm 1956 (Vắng mặt)

2. Ông Phạm Huy S sinh năm 1993 (Vắng mặt)

3. Bà Dương Thùy Phương V, sinh năm 1985 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: tổ 15,khu 2, phường Phú Bình, thị xã Long Khánh, Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ, ngày 28/10/2018, A mượn xe mô tô Biển số 60X2-6078 của anh Phan Vũ G để đi về nhà tắm. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, A chạy xe đến nhà bà Ngô Thị Thu J để trả lại xe cho anh G. Do xe hết xăng nên A đã lấy một ít xăng trong xe anh O để đổ vào xe cho anh G nhưng anh G không đồng ý. Sau đó A đưa tiền cho anh G đi đổ xăng nhưng anh G vẫn không đồng ý nên hai bên xảy ra cự cãi. Anh G dùng tay đánh vào mặt A 02 cái, A bỏ chạy và nhặt 01 cục gạch loại hình chữ nhật có 04 lỗ ném về phía anh G nhưng anh G tránh được. Sau đó A tiếp tục nhặt một cục gạch ném trúng vào mặt anh G rồi bỏ đi.

Vật chứng thu giữ: 02 viên gạch 04 lỗ, màu đỏ (01 viên bị vỡ)

Tại bản kết luận giám định pháp y số 0879/TgT/2018 ngày 30/10/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận: Phan Vũ G có thương tích như sau:

- Tổn thương vỡ xoang hàm phải không di lệch, tỷ lệ 15%

- Tổn thương gãy xương chính mũi, không ảnh hưởng đến chức năng thở và ngửi, tỷ lệ 09%.

- Tổn thương vết thương nằm ở sống mũi kích thước 05x0,2cm, tỷ lệ 0,5%. Phần vết thương nằm ở vùng trán và cung mày phải kích thước 03x0,2cm xấu về thẩm mỹ, tỷ lệ 0,6%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 31%.

Tại bản cáo trạng số: 14/CT-VKS ngày 24/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Khánh đã truy tố bị cáo Hoàng Viết A về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Viết A phạm tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS và về hình phạt đề nghị áp dụng Điều 38, Điều 54, Điều 91, Điều 101, điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : bị cáo A từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.

* Về vật chứng vụ án : Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 02 viên gạch 04 lỗ, màu đỏ (01 viên bị vỡ).

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại yêu cầu bồi thường số tiền 18.500.000đ là hợp lý, mẹ bị cáo đã bồi thường 5.000.000đ.Nay người bị hại yêu cầu bồi thường tiếp số tiền 13.500.000đ là phù hợp. Do bị cáo A khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ khoản 2 điều 586 Bộ luật dân sự buộc bà C và ông B tiếp tục bồi thường số tiền 13.500.000đ cho anh Phan Vũ G.

Quan điểm của bà Lê D bào chữa cho bị cáo A: Qua kết luận điều tra và cáo trạng mô tả thì Hoàng Viết A và Phan Vũ G có đến nhà bà Ngô Thị Thu J.Tại đây A đã mượn xe của G khi trả xe thì xe hết xăng , A đã rút xăng qua và đưa tiền cho G đi đổ xăng nhưng G không đồng ý và xảy ra cãi vã.Anh G đã dùng tay đánh vào mặt bị cáo.Bị cáo đã tức giận và dùng gạch ném vào mặt anh G gây thương tích.Vì vậy mong Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét vì bị cáo Hoàng Viết A khi phạm tôi mới có 17 tuổi, nhận thức còn hạn chế, xem xét theo khoản 1 Điều 91 BLHS. Bị cáo không có tiền án, tiền sự.Đã hỗ trợ bồi thường số tiền 5.000.000đ. Bị cáo luôn thành khẩn khai báo, bị hại có lỗi là đã đánh bị cáo trước theo khoản 2 điều 51 BLHS có thể được xem xét giảm nhẹ. Đề nghị HĐXX xem xét xử dưới mức của khung hình phạt cho bị cáo được hưởng hình phạt” Cải tạo không giam giữ”theo Điều 36 BLHS để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Ngày 28/10/2018, A mượn xe của anh Phan Vũ G để đi về nhà. Đến tối cùng ngày, A chạy xe đến nhà bà Ngô Thị Thu J để trả lại xe cho anh G. Do xe hết xăng nên A đã lấy xăng trong xe anh O để đổ vào xe cho anh G nhưng anh G không đồng ý. Sau đó A đưa tiền cho anh G đi đổ xăng nhưng anh G vẫn không đồng ý nên hai bên xảy ra cự cãi. Anh G dùng tay đánh vào mặt A 02 cái, A bỏ chạy và nhặt 02 cục gạch loại hình chữ nhật có 04 lỗ ném 1 cục về phía anh G nhưng anh G tránh được. Sau đó A tiếp tục dùng cục gạch còn lại ném trúng vào mặt anh G, anh G ngục xuống đường, rồi A bỏ đi.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 0879/TgT/2018 ngày 30/10/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận Phan Vũ G bị thương tật với tỷ lệ 31%. Như vậy việc truy tố bị cáo A về tội “ Cố ý gây thương tích” là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến an ninh trật tự tại địa phương, mà còn xâm phạm đến sức khỏe của người khác.Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo đã dùng gạch xây nhà ném vào mặt người bị hại gây tổn hại cơ thể với tỷ lệ là 31% . Như vậy hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 và điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù mới tương xứng với tính chất mức độ và hành vi của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.Tuy nhiên, Khi phạm tội bị cáo A dưới 18 tuổi, nhận thức còn hạn chế nên HĐXX cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo vì bị cáo có nhân thân tốt , đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mẹ bị cáo đã bồi thường một phần cho bị hại. Hơn nữa bị hại cũng có một phần lỗi khi chủ động đánh bị cáo trước. Vì vậy bị cáo có 2 điểm giảm nhẹ tại khoản 1 điều 51 nên áp dụng điều 54 xử dưới khung hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng: Đối vơi 02 viên gạch 04 lỗ, màu đỏ (01 viên bị vỡ) không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy (Theo biên ban giao nhân vât chưng ngay 29/01/2019 tai Chi cuc Thi hanh an dân sư thi xa Long Khanh) [5] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 18.500.000đ,Bị cáo đồng ý mẹ bị cáo đã bồi thường số tiền 5.000.000đ, nay bị hại yêu cầu bồi thường tiếp số tiền còn lại là 13.500.000đ.Xét tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường tiếp cho người bị hại số tiền 13.500.000đ.Tuy nhiên do bị cáo còn ở độ tuổi chưa thành niên nên cha, mẹ của bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại theo quy định tại điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015. Vì vậy cần buộc bị cáo,ông Hoàng Viết B và bà Nguyễn Thị Tuyết C cùng có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Phan Vũ G số tiền 13.500.000đ.

[6] Xét quan điểm của Đại diện Viện Kiểm Sát phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[7] Xét quan điểm của Người bào chữa: Việc Người bào chữa đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo các điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51BLHS là phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.Tuy nhiên việc đề nghị áp dụng Điều 36 BLHS cho bị cáo mức hình phạt “Cải tạo không giam giữ” là không phù hợp với quy định của pháp luật nên không chấp nhận.

[8]Về án phí: Áp dụng Điều 23, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo A phải nộp 200.000đ án phí hinh sự sơ thẩm và 675.000đ án phí dân sự sơ thẩm.(13.500.000đ x 5% = 675.000đ)

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Viết A phạm tội: “ Cố ý gây thương tích”. - Căn cứ điểm a khoản 1 và điểm c khoan 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1,khoản 2 Điều 51, điều 54, điều 91 và điều 101 Bộ Luật hình sự 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017)

* Xử phạt: Bị cáo Hoàng Viết A 03(ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2018.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 468, Điều 584,Điều 586,Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc Bị cáo Hoàng Viết A,ông Hoàng Viết B và bà Nguyễn Thị Tuyết C phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho anh Phan Vũ G số tiền 13.500.000đ (Mười ba triệu năm trăm ngàn đồng).

*Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 02 viên gạch 04 lỗ, màu đỏ (01 viên bị vỡ) (Theo biên ban giao nhân vât chưng ngay 29/01/2019 tai Chi cuc Thi hanh an dân sư thi xa Long Khanh)

*Về án phí: Áp dụng Điều 23, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo A phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 675.000đ án phí DSST.

Kể từ ngày ông Phan Vũ G có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Hoàng Viết B, bà Nguyễn Thị Tuyết C và bị cáo Hoàng Viết A chưa thanh toán xong số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, bị hại, người dại diện hợp pháp của bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.Riêng ông Hoàng Viết B vắng mặt thì quyền kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản sao bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;