Bản án 33/2019/HS-PT ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 33/2019/HS-PT NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 48/2019/TLPT-PT ngày 23/8/2019 đối với bị cáo do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh B.

Bị cáo kháng cáo: Bùi Văn T, sinh ngày 13/12/1992 tại Lạc S, tỉnh B. Nơi cư trú: xóm T, xã N, huyện S, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Mường; trình độ học vấn: 09/12; tôn giáo: không. Con ông: Bùi Văn N; con bà Bùi Thị N; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/02/2019, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 50 phút ngày 25/02/2019 tại xóm T, xã N, huyện S, tỉnh B, tổ công tác Công an huyện Lạc S phối hợp với công an xã Ân N phát hiện và bắt quả tang đang tàng trữ trong người, tại túi quần bên phải bị cáo đang mặc có 05 gói chất bột dạng cục, màu trằng. Bị cáo khai là chất ma túy mua được được từ một người đàn ông không quen biết sáng ngày 25/02/2019 tại xã Liên Vũ, huyện Lạc S, tỉnh B với giá 2.300.000 đồng về nhà chia nhỏ thành 11 gói, số còn lại vẫn để trong túi nilon. Bị cáo mang theo người 05 gói để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Qua khám xét tại nơi ở của tại xóm T, xã N, huyện S, tỉnh B, Cơ quan điều tra phát hiện một gói nilon và 06 gói giấy bên trong chưa chất bột dạng cục, màu trắng bị cáo khai là chất ma túy.

Tang vật thu giữ tại giai đoạn điều tra gồm 01 gói nilon, 11 gói giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng được đựng trong hai phong bì ghi tên đối tượng; 01 phong bì quả tang và 01 phong bì khám xét.

Kết luận giám định số 42/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 02/4/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: các mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong 02 phong bì niêm phong ghi tên gửi giám định có tổng trọng lượng 6,88 gam, là ma túy, loại Heroin.

Tại bản án sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh B quyết định: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo 05 năm 6 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 25/02/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 16/7/2019 bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên tòa nêu quan điểm: bị cáo kháng cáo trong hạn nên chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo. Về nội dung: Bản án số 12/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh B xét xử bị cáo Thuận tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật; Mức án 05 năm 6 tháng tù tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án này các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm và trong thời hạn luật định bị cáo có kháng cáo hợp lệ được chấp nhận.

[2] Về nội dung:Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 25/02/2019 Công an xã Ân N phối hợp với công an huyện Lạc S phát hiện và bắt quả tang đang tàng trữ trong người tại túi quần bên phải đang mặc của bịcáo có 05 gói chất bột dạng cục màu trắng bị cáo khai đó là ma túy bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khai số ma túy này bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết với giá 2.300.000 đồng, chia thành 11 gói nhỏ, số còn lại vẫn để trong túi nilon; bị cáo mang theo người 05 gói giấy nhỏ để sử dụng, số còn lại để ở nhà. Khám xét nơi ở của bị cáo tại xóm T, xã N, huyện S, tỉnh B cơ quan điều tra phát hiện 01 gói nilon và 6 gói giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng. Theo kết luận giám định số ma túy có tổng trọng lượng 6,88 gam ma túy, loại Heroin.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bịcáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận biết pháp luật, biết việc tàng trữ ma túy bị nhà nước cấm song vì nhu cầu của bản thân bị cáo coi thường pháp luật vẫn cố tình tàng trữ 6,88 gam ma túy để sử dụng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 05 năm 6 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Tại quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số, có ông nội được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đã được Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng cho bị cáo, bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 05 năm 6 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mớinên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên án sơ thẩm.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh B. Cụ thể:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/02/2019.

3.Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000đồng án phí phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số:12/2019/HS-ST ngay 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh B không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 03/10/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HS-PT ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;