Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 169/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Mai Minh Th, sinh năm 1976 (có mặt)

ĐKHKTT: Số 54, ngõ 14, phường BĐ, quận HT, thành phố Hà Nội

Tạm trú: Số 25, tổ 5, phường GB, quân LB, thành phố HN

Bị đơn: anh Ngô Quý Đ, sinh năm 1977 (vắng mặt)

ĐKHK và cư trú tại: Thôn AL, xã YM, huyện LG, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Mai Minh Th trình bày tại đơn khởi kiện, bản tự khai: Chị và anh Ngô Quý Đ đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND YM, huyện Lạng Giang ngày 5/9/1997, tổ chức lễ cưới ngày 10/9/1997. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng nhau, cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2016 thì bắt đầu mâu thuẫn, năm 2018 thì mâu thuẫn gay gắt. Vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, anh Đ hay uống rượu rồi chửi mắng, đánh đập chị và các con. Năm 2018 chị đã gửi đơn yêu cầu ly hôn, sau đó lại rút đơn khởi kiện để vợ chồng hòa giải, đoàn tụ. Tuy nhiên, trong suốt hơn một năm qua vợ chồng không về sống cùng nhau, không hòa giải được mâu thuẫn. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ, chị yêu cầu giải quyết cho chị và anh Đ ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là Ngô Đức Th - sinh ngày 14/12/1997, hiện khỏe mạnh, do Th trên 18 tuổi nên chị không yêu cầu giải quyết.

Con thứ hai là Ngô Mai Thùy D - sinh ngày 04/11/2003, hiện ở cùng chị, D có nguyện vọng ở cùng mẹ nên chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh Đ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Ngô Quý Đ trình bày: Anh xác nhận thời gian, điều kiện kêt hôn như chị Th đã khai. Vợ chồng sống hòa thuận nhưng đến năm 2016 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, do có những bất đồng trong tính cách, lối sống của cả hai. Kể từ khi anh bị ngã, bị thương, sức khỏe yếu, không làm được nhiều thì mâu thuẫn càng gay gắt. Năm 2018 chị Th đã gửi đơn ly hôn, sau đó rút đơn để vợ chồng đoàn tụ, nhưng từ đó đến nay, chị Thi và các con sinh sống tại Hà Nội, rất ít khi chị Th về. Vợ chồng không quan tâm đến nhau. Nay chị Th yêu cầu ly hôn anh không nhất trí vì vẫn mong muốn vợ chồng đoàn tụ, việc chị Th muốn ly hôn là quyền của chị Th.

Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung như chị Th đã trình bày, anh nhất trí để chị Th nuôi con gái Ngô Mai Thùy D. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị Th không yêu cầu, nên anh sẽ tự có trách nhiệm riêng. Đối với con Ngô Đức Th đã trên 18 tuổi thì Th tự quyết định, anh không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Th có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu. Anh Đ vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn có lời khai, có tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, đã không thực hiện đúng pháp luật. Về tình trạng mâu thuẫn giữa chị Th, anh Đ đã kéo dài, vợ chồng sống ly thân, Tòa án đã hòa giải nhưng không thành nên đề nghị áp dụng điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th, anh Đ ly hôn. Về con chung, đề nghị giao cho chị Th nuôi cháu Ngô Mai Thùy D, cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét. Chị Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Đơn khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con theo khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn có lời khai, có mặt khi Tòa mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng vắng mặt tại phiên tòa ngày 22/7/2019 và phiên tòa ngày 31/7/2019. Do đó HĐXX căn cứ quy định tại điều 227, điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Minh Th và anh Ngô Quý Đ đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã YM, huyện Lạng Giang ngày 05/9/1997 nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Anh Đ và chị Th đều thừa nhận từ năm 2016 cho đến nay giữa vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn bất đồng gay gắt trong cuộc sống, do tính cách, lối sống, cách cư xử không tôn trọng nhau, vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm nay, không quan tâm, không có trách nhiệm với nhau. Đại diện chính quyền địa phương cũng xác nhận điều kiện, thực trạng hôn nhân của anh Đ, chị Th đúng như anh, chị khai. Mặc dù anh Đ không muốn ly hôn, Tòa án đã tiến hành hòa giải song chị Th kiên quyết không về chung sống với anh Đ. HĐXX xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa anh Đ và chị Th đã gay gắt, kéo dài, việc hòa giải đoàn tụ không thành nên căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, quyết định cho chị Mai Minh Th ly hôn anh Ngô Quý Đ.

[4].Về con chung: Đối với cháu Ngô Đức Th, sinh ngày 14/12/1997, hiện khỏe mạnh, do Th trên 18 tuổi nên không xem xét, giải quyết. Đối với cháu Ngô Mai Thùy D, sinh ngày 04/11/2003 xin được ở cùng mẹ, anh Đ cũng nhất trí nên HĐXX xét giao cho chị Th quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, HĐXX không đặt ra xem xét vì chị Th không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh Đ có quyền thăm nom con chung và không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: chị Mai Minh Th phải chịu án phí theo quy định tại điều 26, 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 56, 57, điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, điều 35; điều 39; điều 70; điều 71; điều 72; điều 147; điều 227; điều 228; điều 235; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, 27 nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp án phí, lệ phí Tòa án.

[1].Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Minh Th và anh Ngô Quý Đ ly hôn.

[2].Về con chung: Giao cho chị Mai Minh Th có quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Ngô Mai Thùy D sinh ngày 04/11/2003.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

[3]. Án phí: chị Mai Minh Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0007152 ngày 08/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong han 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;