Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 75/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1989.

Trú tại: Số 95 hẻm 10, đường C, khu phố L, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

Chỗ ở hiện nay: Số 240 đường N, ấp L, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Võ Hoài Đ, sinh năm: 1987.

Trú tại: Số 95 hẻm 10, đường C, khu phố L, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn xin ly hôn ngày 18 tháng 02 năm 2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L, anh Đ tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2006, có đăng lý kết hôn tại UBND phường Hiệp Ninh, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh vào năm 2007. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do anh Đ sống nhờ vào cha mẹ ruột, không tự làm ra tiền để lo cho gia đình, vợ con; thường xuyên uống rượu và gây chuyện chửi bới, đánh đập xua đuổi chị ra khỏi nhà; chị đi làm kiếm tiền lo cho con thì anh Đ kiếm chuyện này chuyện khác, bản thân chị sống chung bên nhà chồng, lời qua tiếng lại gây áp lực cho chị. Do đó, chị không thể sống chung được nên chị đã về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay; trong thời gian chị không sống bên nhà chồng thì giữa gia đình hai bên cũng phát sinh nhiều mâu thuẩn. Nay chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị xin ly hôn với anh Đ;

Về con chung: Anh chị có 03 con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh năm 2012 và Võ Nguyễn Kim N, sinh năm 2014; Võ Phúc H, sinh năm: 2016. Khi chị về nhà cha mẹ ruột sống chị có dẫn con lớn tên Võ Nguyễn Bảo T theo nhưng sau đó gia đình chồng bắt về. Nay xin ly hôn, chị có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi tất cả 03 con chung, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Lý do chị có yêu cầu được quyền nuôi con chung vì chị đi làm công nhân có việc làm ổn định, còn anh Đ không có việc làm luôn sống nhờ vào gia đình. Cha mẹ chị cũng có điều kiện để phụ chị chăm sóc cháu.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa; Bị đơn anh Võ Hoài Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đ xác nhận giữa anh và chị L chung sống vợ chồng có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẩn từ chuyện tiền bạc, chị L đi làm không dành nhiều thời gian để chăm sóc con cái; từ đó vợ chồng hay tranh cải dẫn đến bất hòa và gia đình không hạnh phúc. Chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 12 năm 2018, mặc dù anh có xuống nhà năn nỉ chị L nhiều lần nhưng chị L không về. Nay anh Đ xác định anh chị có nhiều mâu thuẩn phát sinh nhưng anh thương ba đứa con còn quá nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn, xin đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái.

Về con chung: Anh chị có 03 con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh năm 2012 và Võ Nguyễn Kim N, sinh năm 2014; Võ Phúc H, sinh năm: 2016. Hiện con chung đang sống chung với anh Đ.

Anh không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung;

Anh Đ trình bày chị L có yêu cầu được quyền nuôi con sau ly hôn nhưng thực tế gia đình chị L không đủ điều kiện để chăm sóc và cho con ăn học.

Tài sản chung, nợ chung: Anh không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi diện Viện Kiếm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L đối với anh Võ Hoài Đ;

Về con chung: Buộc anh Võ Hoài Đ giao ba con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh năm 2012 và Võ Nguyễn Kim N, sinh năm 2014; Võ Phúc H, sinh năm: 2016 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; ghi nhận chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh chị không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, iến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Võ Hoài Đ tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2006, có đăng lý kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Hiệp Ninh, thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh) vào năm 2007. Quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị L trình bày quá trình anh chị chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng không có hạnh phúc nên chị L xin ly hôn với anh Đ.

Xét thấy, chị L và anh Đ thống nhất xác định quá trình anh chị chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẩn chủ yếu là về kinh tế gia đình; do anh Đ có đủ sức khỏe nhưng không có nghề nghiệp và thu nhập để chăm lo cho gia đình, anh không tự lập mà phải sống nhờ vào cha mẹ ruột, do đó vợ chồng thường xuyên bất hòa và gia đình không có hạnh phúc. Mâu thuẩn đã phát sinh trong thời gian dài và từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay anh chị sống ly thân nhưng cả hai không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặc dù, Tòa án đã nhiều lần động viên hòa giải để anh chị đoàn tụ nhưng chị L vẫn kiên quyết giữ yêu cầu xin ly hôn với anh Đ. Do đó, có đủ cơ sở để xác định tình cảm vợ chồng giữa chị L và anh Đ không còn, mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L đối với anh Võ Hoài Đ là phù hợp.

[2] Về con chung: Anh chị có 03 con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 07-5-2012 và Võ Nguyễn Kim N, sinh ngày 24-9-2014; Võ Phúc H, sinh ngày 16-7- 2016. Hiện nay cả 3 con chung đang sống với anh Đ nhưng chị L có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 3 con chung.

Xét thấy con chung tên Võ Nguyễn Bảo T có nguyện vọng được sống chung với chị L; con chung tên Võ Phúc H thì chưa đủ 36 tháng tuổi nên giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, con chung tên Võ Nguyễn Kim N còn quá nhỏ và là con gái nên rất cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, do đó để đảm bảo đời sống tinh thần cho con chung sau khi anh chị ly hôn nên tạo điều kiện cho cả ba chị em sống chung với nhau. Mặc khác, anh Đ không có nghề nghiệp ổn định nên buộc anh Đ giao cả ba con chung cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp; ghi nhận chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đ được quyền thăm nom con chung theo quy định pháp luật.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh, chị không yêu cầu nên không xem xét giải quyết;

[4] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với những tình tiết và nội dung của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; 56 và Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, nộp và quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L đối với anh Võ Hoài Đ.

Chị Nguyễn Thị L và anh Võ Hoài Đ không còn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.

2. Về con chung:

Buộc anh Võ Hoài Đ có trách nhiệm giao ba con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh năm 2012 và Võ Nguyễn Kim N, sinh năm 2014; Võ Phúc H, sinh năm: 2016 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đ được quyền đến thăm nom con chung theo quy định pháp luật;

3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh chị không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết;

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006580 ngày 19-02-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Chị L đã nộp đủ án phí.

5. Quyn kháng cáo: Chị L, anh Đ được quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tiếp theo ngày tuyên án.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;