Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/2019/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019 về “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L; sinh năm 1981; địa chỉ đăng ký thường trú: Ấp 1, thị trấn N, huyện P, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: ấp TL, xã N, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng D; sinh năm 1988; địa chỉ: ấp 1, thị trấn N, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 27/5/2019 nguyên đơn ông Nguyễn Văn L trình bày: Ông L và bà Nguyễn Thị Hồng D tự nguyện kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 14/2006, ngày 27/02/2006. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, đến tháng 6/2017 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến nên cuộc sống không hạnh phúc, ông L và bà D sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay, sau khi sống ly thân thì ông L và bà D có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong thời gian chung sống, ông L và bà D có 01 người con chung là Nguyễn Phúc T, sinh ngày 21/11/2006 hiện nay sống chung với ông L; về tài sản chung và nợ chung không có.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn L yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Hồng D; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên và không yêu cầu bà D cấp dưỡng cho con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có nên ông L không yêu cầu gì.

- Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng D: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà D, nhưng bà D không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà D 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên hòa giải nhưng bà D vẫn vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng D đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thâm phan , Thư ký , Hôi đông xet xư va nguyên đơn trong qua trinh giai quyêt vu an kê tư khi thu ly vu an đên trươc thơi điêm Hôi đông xet xư vao nghi an đã châp hanh đung cac quy đinh cua phap luât vê tô tung dân sư . Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng D chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự . Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa xét thấy tình trạng của vợ chồng ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng D đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Văn L; giao cháu Nguyễn Phúc T cho ông Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng, bà D không cấp dưỡng cho con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng D tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 14/2006, ngày 27/02/2006 nên quan hệ hôn nhân giữa ông L và bà D là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, ông L có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Xét lý do yêu cầu ly hôn của ông L, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông L cho rằng nguyên nhân do bất đồng ý kiến nên cuộc sống không còn hạnh phúc và sau khi sống ly thân thì ông L và bà D có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để động viên vợ chồng ông L và bà D đoàn tụ với nhau nhưng bà D vẫn vắng mặt và ông L vẫn kiên quyết ly hôn với bà D vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, tình trạng của vợ chồng ông L và bà D đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc ông L xin ly hôn với bà D là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 89 và Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông L được ly hôn với bà D.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Văn L xác định trong thời gian chung sống, ông L và bà Nguyễn Thị Hồng D có 01 người con chung là Nguyễn Phúc T, sinh ngày 21/11/2006 sống chung với ông L; ông L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên. Xét thấy, từ khi ông L và bà D sống ly thân cho đến nay cháu T do ông L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; đồng thời, quá trình giải quyết vụ án khi ghi nhận ý kiến thì cháu T có nguyện vọng sống chung với ông L. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu Trọng, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải giao cháu T cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra, căn cứ vào Điều 94 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Hội đồng xét xử dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho bà D mà không ai được cản trở.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn L không yêu cầu cấp dưỡng cho con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn L xác định trong thời gian chung sống ông L và bà Nguyễn Thị Hồng D không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Ông Nguyễn Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Hồng D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 89, Điều 91, Điều 92 và Điều 94 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn L.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn L được ly hôn với bà Nguyễn Thị Hồng D.

1.2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phúc T, sinh ngày 27/02/2006 cho ông Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên; bà Nguyễn Thị Hồng D không cấp dưỡng cho con chung. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho bà D mà không ai được cản trở.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn L xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0008381 ngày 27/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng; như vậy, ông Nguyễn Văn L đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Hồng D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;