Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1972; cư trú tại ấp D, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Chị Kiều Thị H2, sinh năm 1977; cư trú tại ấp D, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 31 tháng 01 năm 2019 của anh Nguyễn Văn H và quá trình tố tụng tại Tòa án anh H trình bày: Anh và chị Kiều Thị H2 tự nguyện kết hôn vào năm 1996, đến năm 2010 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do chị H2 có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác mặc dù anh không bất gặp nhưng anh nghe phản ánh và chị Hương cũng đã thừa nhận với anh. Từ đó, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và thường xuyên bất đồng, cự cải nhau nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Kiều Thị H2.

Thời gian chung sống anh H và chị H2 có ba người con trong đó có một người con đã thành niên tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1997 nên không đặt ra việc nuôi dưỡng; đối với hai người con chưa thành niên đang ở cùng anh, sau khi ly hôn anh yêu cầu nuôi gồm Nguyễn Thị T, sinh năm 2005 và Nguyễn Kim C, sinh năm 2015, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản anh H không yêu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Kiều Thị H2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và không có ý kiến phản hồi.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án được thực hiện đúng pháp luật. Đối với chị H2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H2 là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho anh Nguyễn Văn H ly hôn với chị Kiều Thị H2, giao hai người con chưa thành niên cho anh H nuôi, không cấp dưỡng, tài sản không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Vụ việc theo yêu cầu của anh Nguyễn Văn H được Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Chị Kiều Thị H2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do chính đáng, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt chị H2.

[3] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn H và chị Kiều Thị H2 được xác lập vào năm 1996, đến ngày 25/11/2010 đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập có hiệu lực nên hôn nhân được xác định là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký, nay xảy ra tranh chấp Tòa án căn cứ vào những quy định về chấm dứt hôn nhân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Quá trình chung sống thực tế có xảy ra mâu thuẫn, chủ yếu là do có sự bất đồng nhau về quan điểm, lối sống, từ đó thiếu sự tin tưởng và không thông cảm chia sẽ với nhau làm cho tình cảm vợ chồng bị ảnh hưởng và không giải quyết được. Bản thân chị H2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt điều đó cho thấy chị H2 không có thiện chí để hàn gắn. Xét thấy, đã có sự vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn H được ly hôn với chị Kiều Thị H2 là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nuôi con chung: Anh H và chị H2 có ba người con chung trong đó có một người con đã thành niên không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên không đặt ra việc nuôi dưỡng, đối với hai người con chưa thành niên hiện đang ở cùng anh Hận đảm bảo điều kiện phát triển và để không làm xáo trộn môi trường sống cũng như căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận giao hai người con chưa thành niên gồm Nguyễn Thị T, sinh năm 2005 và Nguyễn Kim C, sinh năm 2015 cho anh H nuôi, phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Chị H2 có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về chia tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên không giải quyết trong cùng vụ án.

[6] Về án phí: Anh Nguyễn Văn H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, phần tạm ứng án phí anh H đã nộp được khấu trừ.

[7] Xét ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát trong việc giải quyết vụ án là có căn cứ được chấp nhận.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử vắng mặt chị Kiều Thị H2.

Về hôn nhân: Chấp nhận cho anh Nguyễn Văn H được ly hôn với chị Kiều Thị H2

Về nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn H được nuôi hai người con tên Nguyễn Thị T, sinh năm 2005 và Nguyễn Kim C, sinh năm 2015 đang ở với anh H. Đối với Nguyễn Thị N hiện tại đã thành niên không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên không đặt ra việc nuôi dưỡng. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Chị H2 có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không đươc lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của anh H.

Về chia tài sản: Do đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng, anh H đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005569 ngày 31/01/2019 được khấu trừ.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;