Bản án 33/2018/DS-ST ngày 31/05/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2018/DS-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/ 2018/ TLST - DS ngày 23 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2018/QĐST-DS ngày 14/5/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; HKTT: Tiểu Đ, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội. Chỗ ở hiện nay: Tiểu T, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội.

* Đồng bị đơn:

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; Hộ khẩu thường trú và trú tại: Tiểu khu T, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội.

- Anh Phùng Văn H, sinh năm 1960; Hộ khẩu thường trú: Số nhà 13/8, đường Đ, phường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội. Cư trú: Tiểu T, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên đơn: Ông Phùng Văn T, sinh năm 1958; HKTT: Tiểu Đ, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội. Chỗ ở hiện nay: Tiểu T, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội. (Ông Th ủy quyền cho bà D).

Bà D có mặt; chị H vắng mặt, anh H có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đòi nợ bà Nguyễn Thị D và những lời khai tại tòa bà D trình bày:

Chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H, ở tiểu T, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội có mở cửa hàng vàng bạc kinh doanh. Nên ngày 07/8/2011 bà D có cho anh H vay 110.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng, rút xuống 2,5%/ tháng; ngày 16/8/2011 bà D cho chị H vay 30.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút xuống 2,5%/ tháng; ngày 17/8/2011 bà D cho chị H vay 40.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút xuống 2,5%/ tháng; ngày 27/8/2011 bà D cho anh H vay 40.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng, rút xuống 2,5%/tháng; ngày 31/8/2011 bà D cho anh H vay 20.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng, rút xuống 2,5%/ tháng; ngày 13/9/2011 bà D cho chị H vay 25.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng,  rút xuống 2,5%/ tháng. Tổng 06 lần bà D cho chị H và anh H vay là 265.000.000 đồng (Hai trăm sáu mươi năm triệu đồng), được thể hiện trên Hóa đơn bảo đảm vàng có chữ ký của chị H, anh H và đóng dấu của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý H, H. Bà D đã nhiều lần đến gặp chị H, anh H yêu cầu chị H, anh H trả nợ, nhưng chị H, anh H không trả bất cứ khoản tiền gốc, tiền lãi nào mà có ý thức trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Tính đến nay đã hơn 06 năm, nên bà D làm đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng chị H, anh H phải trả số tiền gốc trên, còn số lãi bà D không yêu cầu vợ chồng chị H, anh H phải trả. Số tiền 265.000.000 đồng mà bà D cho chị H, anh H vay là tiền của vợ chồng bà D. Hồ sơ thể hiện: 

Chị H trình bầy: Ngày 07/8/2011 anh H vay bà D 110.000.000 đồng; ngày 16/8/2011 chị vay bà D 30.000.000 đồng; ngày 17/8/2011 chị H vay bà D 40.000.000 đồng; ngày 27/8/2011 anh H vay bà D 40.000.000 đồng; ngày 31/8/2011 anh H vay bà D 20.000.000 đồng; ngày 13/9/2011 chị H vay bà D 25.000.000 đồng. Tổng 06 lần chị H và anh H vay của bà D là  265.000.000 đồng (Hai trăm sáu mươi năm triệu đồng) được thể hiện trên Hóa đơn bảo đảm vàng có chữ ký của chị H, anh H và đóng dấu của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý H H. Sau khi vợ chồng chị H vay được số tiền trên, chị H lại cho chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1979, ở thôn M, xã N, huyện X, Thành phố Hà Nội vay. Do chị C đã lừa đảo vợ, chồng chị, nên vợ, chồng chị không có khả năng trả được số tiền vay của bà D. Nay bà D yêu cầu vợ chồng chị phải trả tiền gốc là vay 265.000.000 đồng, chị H sẽ có trách nhiệm trả bà D.

Anh Phùng Văn H trình bầy: Việc chị Nguyễn Thị H (vợ anh) nhận vay, gửi của bà Nguyễn Thị D, là cá nhân chị H, anh không liên quan gì kể cả về mặt cá nhân cũng như Công ty, anh chỉ là người viết hóa đơn, ký và nhận tiền hộ chị H, nên chị H là người có trách nhiệm trả nợ cho bà D.

Tại phiên toà: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị D đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của bà D, buộc vợ chồng chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H phải trả cho bà D 265.000.000 đồng.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng; đồng bị đơn chưa chấp hành nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc vợ chồng chị Nguyễn Thị Hà và anh Phùng Văn H phải trả cho bà Nguyễn Thị D tổng số tiền là 265.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

Về tố tụng: Việc chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, anh Phùng Văn H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu khởi kiện đòi tiền giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị D và đồng bị đơn chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: 

Về yêu cầu khởi kiện: Bà Nguyễn Thị D khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc phía bị đơn chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H phải trả 265.000.000 đồng.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà D và các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp cùng các tài liệu Tòa án thu thập, thì có căn cứ xác định chị H, anh H đã vay của bà D tổng số 06 lần là 265.000.000 đồng vào các ngày 07/8/2011, ngày 16/8/2011, ngày 17/8/2011, ngày 27/8/2011, ngày 31/8/2011, ngày 13/9/2011. Việc vay tiền trên giữa các bên được thể hiện trên hóa đơn bảo đảm vàng, có chữ ký của chị H, anh H làm căn cứ là đúng. Các bên đều thừa nhận là đúng số tiền cho nhau vay và chữ ký của mình là đúng, không có tranh chấp gì về số tiền vay.

Về người trả nợ: Trong khi bà D yêu cầu cả hai vợ chồng chị H, anh H cùng trả, thì chị H, anh H lại thống nhất chỉ chấp nhận để chị H trả với lý do, chị H mới là người đứng ra vay, anh H chỉ là người viết hóa đơn, ký và nhận tiền hộ chị H, anh H không liên quan gì.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không chấp nhận lý do này của chị H, anh H vì:

Thứ nhất: Quan hệ giữa anh H, chị H là quan hệ vợ chồng, mà theo quy định Điều 219 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì "Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất" và "Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung", cho nên số tiền dù là chị H hay anh H vay của nguyên đơn phải được coi là tài sản chung của vợ chồng và đương nhiên khi có công nợ phát sinh, thì nghĩa vụ trả nợ cũng là nghĩa vụ chung của vợ chồng, hơn nữa chị H xác nhận, sau khi vợ chồng chị vay được số tiền trên, chị lại cho chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1979, ở thôn M, xã N, huyện X, Thành phố Hà Nội vay để lấy lãi suất chênh lệnh phục vụ mục đích làm ăn kinh tế gia đình.

Thứ hai: Chị H, anh H là người trực tiếp vay, ký, xác nhận số tiền vay và còn sử dụng con dấu của Công ty vàng bạc đá quý H H đóng vào chỗ người vay, phía anh H, chị H đều xác nhận, đây là giao dịch mang tính cá nhân do chị H, anh H tự thực hiện chứ không sử dụng tư cách pháp nhân của Công ty do anh H là người đại diện theo pháp luật, bởi Công ty của anh H không có chức năng nhận gửi hoặc vay tiền. Qua xem xét đăng ký kinh doanh của Công ty, thấy Công ty vàng bạc đá quý H H, đúng là không có chức năng gửi hoặc cho vay tiền. Phía nguyên đơn cũng xác nhận đem tiền gửi là gửi cá nhân chứ không gửi cho Công ty nào. Nên về mặt pháp luật, Tòa chỉ xem đây là giao dịch giữa các cá nhân với nhau.

Từ những lý do trên, nên buộc cả chị H và anh H phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho bà D.

Đối với số tiền lãi từ khi bà D cho chị H, anh H vay đến nay, do phía nguyên đơn không yêu cầu Tòa giải quyết. Xét yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện và không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Do chị H, anh H hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có đơn xin miễn, giảm án phí , nên giảm ½ án phí dân sự sơ thẩm cho chị H và anh H.

Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D được pháp luật bảo vệ, nên bà D không phải chị án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho bà Nguyễn Thị D đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, 474, 476 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đìnhNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D đối với chị Nguyễn Thị và anh Phùng  Văn H. Buộc chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H có trách nhiệm trả bà Nguyễn Thị D 265.000.000 đồng (Hai trăm sáu mươi năm triệu đồng).

Kể từ ngày các bên có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành không thanh toán số tiền phải thanh toán, thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành số tiền lãi theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi  hành.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2.Về án phí: Chị Nguyễn Thị H và anh Phùng Văn H phải chịu 6.625.000.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm hai mươi năm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.771.000 đồng (Một triệu bẩy trăm bẩy mươi mốt nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AE/2010/0004981 ngày 23/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2018/DS-ST ngày 31/05/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:33/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;