TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 332017/HSST NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2017 tại nhà văn hóa xã Khánh Nhạc, Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2017/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
TRẦN VĂN TH – Sinh năm 1986, trú tại: Thôn Tr, xã K, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 2/12; Bị cáo con ông Trần Văn Th và bà Vũ Thị Th; Gia đình có 05 anh chị em bị cáo là con thứ tư; Bị cáo có vợ là Phạm Thị Th và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2003; Tiền án: Không, tiền sự: Tại quyết định số 86/QĐ-XPHC ngày 19/8/2013 bị Công an huyện Yên Mô xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe cho người khác Trần Văn Th chưa chấp hành. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/7/2017 hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; Có mặt.
- Người bị hại:
+ Chị Đào Thị Y, sinh năm 1987, trú tại: Xóm 5, xã K, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
NHẬN THẤY
Ngày 03 tháng 7 năm 2017 Trần Văn Th sử dụng điện thoại di động Sam Sung Galaxy A3 có sim thuê bao số 0976676511 của mình vào mạng Zalo với nick name “ Trần Thành L” để làm quen với chị Đào Thị Y, sinh năm 1987 trú tại xóm 5, xã K, huyện Y có nick name “YenDao”. Sau khi đã làm quen với chị Y, ngày 04/7/2017 Th rủ chị Y đi chơi rồi chở chị Y vào một nhà nghỉ ở thành phố N thuê phòng nghỉ. Tại đây Th cởi quần chị Y và đòi quan hệ tình dục nhưng chị Y không đồng ý. Chị Y tát vào mặt Th, Th cũng tát vào mặt chị Y và sử dụng chiếc điện thoại di động của mình chụp ảnh chị Y đang trong tình trạng không mặc quần. Sau đó Th và chị Y đi về, ngày 07/7/2017 Th dùng điện thoại di động vào mạng Zalo nhắn tin đe dọa, yêu cầu chị Y phải đến quán nước đối diện với đường vào trường THPT Y- B thuộc địa phận xã K, huyện Y đưa cho Th số tiền 3.000.000đ nếu không Th sẽ gửi cho chồng chị Y hình ảnh đã chụp chị Y tại nhà nghỉ. Chị Y nhắn tin nói không có tiền và xin Th nhưng Th không đồng ý, Th yêu cầu chị Y mang chứng minh nhân dân đến T sẽ dẫn chị Y đi vay lãi để có tiền đưa cho Th. Chị Y nói chứng minh nhân dân đã bị mất, Th yêu cầu chị Y cầm sổ hộ khẩu. Chị Y trả lời sổ hộ khẩu mẹ chồng đang giữ, Th tiếp tục nhắn tin yêu cầu chị Y mang giấy tờ xe mô tô đến Th sẽ dẫn chị Y đi vay tiền. Th đe dọa chị Y nếu không làm theo yêu cầu của Th thì sẽ phải trả giá đắt, chị Y trả lời chồng chị Y đang cầm giấy tờ xe thì Th đe dọa chị Y nếu đến sáng ngày 08/7/2017 không đưa tiền cho Th thì Th sẽ in ảnh phát tán đến những điểm công cộng trong làng, xóm nơi chị Y ở. Lo sợ vì bị Th đe dọa, đòi tiền nên tối ngày 07/7/2017 chị Y điện thoại báo cho chồng là anh Vũ Văn V, sinh năm 1982 về nhà và nói lại sự việc với anh V. Anh V đã sử dụng điện thoại và nick name của chị Y vào mạng Zalo nhắn tin hẹn Th đến 08 giờ ngày 08/7/2017 sẽ đến quán nước trên gặp Th đưa tiền. Hồi 8 giờ ngày 08/7/2017 tại quán nước của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 ở thôn Y4, xã K, huyện Y, khi Th đang gặp và ép buộc chị Đào Thị Y phải đưa tiền thì bị anh Vũ Văn V cùng với các anh Vũ Văn M, sinh năm 1975, Vũ Văn S, sinh năm 1985 đều trú tại xóm 5, xã K ( là anh trai và em trai của anh V) giữ lại.
Chị Y đã giữ lại được chiếc điện thoại Sam Sung Galaxy A3 của Th đồng thời trình báo sự việc với Công an xã K, sau đó chị Y giao nộp chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy J7 vỏ màu hồng số Imei 1: 355228089563967, số Imei 2: 3552280895639654, lắp 2 sim thuê bao số 01659608515 và 01258810615 của chị Đào Thị Y cùng chiếc điện thoại di động Sam sung Galaxy A3 vỏ màu bạc, số Imei 1: 358988072043833, số Imei 2: 358988072043831, lắp sim thuê bao số 0976676511 của Trần Văn Th cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.
Quá trình điều tra Trần Văn Th thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản cáo trạng số 35/CT – VKS ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trần Văn Th ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội: “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 135 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Khánh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn Th phạm tội: “ Cưỡng đoạt tài sản”
- Áp dụng khoản 1 Điều 135, điều 18, khoản 1 và khoản 3 điều 52, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn Th từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 11/7/2017-
- Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại Sam Sung Galaxy A3 vỏ màu bạc, số Imei 1: 358988072043833, số Imei 2: 358988072043831, lắp sim thuê bao số 0976676511 là chiếc điện thoại mà Trần Văn Th đã sử dụng nhắn tin chụp ảnh nhằm mục đích đe dọa chiếm đoạt tài sản của chị Y.
- Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại số 0976676511 của Trần Văn Th.
- Trả lại cho chị Đào Thị Y chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy J7 vỏ màu hồng số Imei 1: 355228089563967, số Imei 2: 3552280895639654, lắp 2 sim thuê bao số 01659608515 và 01258810615.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu:
Bị cáo khai nhận: Sáng ngày 03 tháng 7 năm 2017 Trần Văn Th sử dụng điện thoại di động Sam Sung Galaxy A3 có sim thuê bao số 0976676511 của mình vào mạng Zalo với nick name “ Trần Thành L” để làm quen với chị Đào Thị Y có nick name “YenDao”. Qua các tin nhắn giữa chị Y và Th thì Th biết được nhà chị Y ở xã K. Cùng ngày hôm đó Trần Văn Th đã 2 lần xuống nhà chị Y để gặp và nói chuyện với chị Y. Đến ngày 04/7/2017 Th rủ chị Y đi chơi rồi chở chị Y vào một nhà nghỉ ở thành phố N thuê phòng nghỉ với mục đích đòi quan hệ tình dục với chị Y và sau đó Th đã cởi quần của chị Y ra nhưng chị Y không đồng ý quan hệ tình dục với Th. Hai bên xảy ra xô sát chị Y có tát Th và Th tát lại chị Y đồng thời Th sử dụng chiếc điện thoại di động của mình chụp ảnh chị Y đang trong tình trạng không mặc quần. Sau đó Th và chị Y đi về, ngày 07/7/2017 Th dùng điện thoại di động vào mạng Zalo nhắn tin đe dọa tiếp tục yêu cầu chị Y cho quan hệ tình dục nhưng chị Y kiên quyết không nhất trí thì lúc này Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị Y nên Th yêu cầu chị Y phải đưa cho Th số tiền 3.000.000đ nếu không Th sẽ gửi cho chồng chị Y hình ảnh đã chụp chị Y tại nhà nghỉ. Sau khi nhắn tin đe dọa nhiều lần thì đến ngày 08/7/2017 chị Đào Thị Y đưa tiền cho Th thì bị anh V chồng chị Y cùng với các anh Vũ Văn M, Vũ Văn S giữ lại và giao Th cho lực lượng công an xã K và Công an huyện Y.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại là chị Đào Thị Y và những người làm chứng là anh Vũ Văn V, Vũ Văn M, Vũ Văn S và chị Nguyễn Thị L. Đồng thời cũng được chứng minh qua các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã dùng các tin nhắn và hình ảnh uy hiếp để chiếm đoạt số tiền 3.000.000đ của chị Y là vi phạm pháp luật. Do vậy hành vi của Trần Văn Th đã phạm vào tội cưỡng đoạt tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 135 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng nó đã trực tiếp đe dọa, xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang tâm lý phá vỡ hạnh phúc gia đình của người khác. Mặt khác còn làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn xã K nói riêng và trên địa bàn huyện Y nói chung. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
Đối với Trần Văn Th là người trưởng thành, có gia đình vợ con và là trụ cột trong gia đình nhưng Th không tu trí làm ăn mà luôn vào các trang mạng xã hội kết bạn với mục đích để quan hệ tình dục nhưng khi không thỏa mãn nhu cầu thấp hèn của mình thì bị cáo đã dùng mọi thủ đoạn để đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác phục vụ nhu cầu ăn chơi của mình. Bản thân bị cáo năm 2013 bị Công an huyện Yên Mô xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe người khác bị cáo chưa chấp hành nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục dấn sâu vào con đường phạm tội. Đối với hành vi của Trần Văn Th ngày 08/7/2017 khi đang thực hiện hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản của chị Đào Thị Y nhưng chưa lấy được tài sản thì đã bị phát hiện bắt giữ nên lần phạm tội này của Th thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trên. Từ những căn cứ trên xét thấy cần phải lên cho bị cáo một mức án đủ nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm nhằm giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
Khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự. Từ những tình tiết trên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và áp dụng cho bị cáo mức án bằng mức khởi điểm của khung hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Trong vụ án này Trần Văn Th còn có hành vi đòi quan hệ tình dục với chị Y và đánh chị Y tại nhà nghỉ ở thành phố N vào ngày 04/7/2017. Do chị Y từ chối giám định và đề nghị không xử lý hình sự về các hành vi này của Thành nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y không xử lý.
Đối với chị Đào Thị Y trong lúc Trần Văn Th bị anh Vũ Văn V, Vũ Văn M và Vũ Văn S giữ lại thì chị Y đã đến lấy chiếc điện thoại di động của Th từ trong túi quần ra. Việc làm này của chị Y nhằm mục đích để Th không xóa những tin nhắn là chứng cứ buộc tội thành và ngay sau đó chị Y đã giao nộp chiếc điện thoại này cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y. Do vậy cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y không truy cứu hành vi trên của chị Đào Thị Y.
Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ :
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại Sam Sung Galaxy A3 vỏ màu bạc, số Imei 1: 358988072043833, số Imei 2: 358988072043831, lắp sim thuê bao số 0976676511 là chiếc điện thoại mà Trần Văn Th đã sử dụng nhắn tin chụp ảnh nhằm mục đích đe dọa chiếm đoạt tài sản của chị Y
- Trả lại cho chị Đào Thị Y chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy J7 vỏ màu hồng số Imei 1: 355228089563967, số Imei 2: 3552280895639654, lắp 2 sim thuê bao số 01659608515 và 01258810615.
- Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Bị cáo: Trần Văn Th phạm tôi: Cưỡng đoạt tài sản.
- Áp dụng khoản 1 điều 135, điều 18, khoản 1 và khoản 3 điều 52, điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo: Trần Văn Th 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 11/7/2017.
2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự và điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại Sam Sung Galaxy A3 vỏ màu bạc, số Imei 1: 358988072043833, số Imei 2: 358988072043831, lắp sim thuê bao số 0976676511, số sêri sim 8984048851001040074 là chiếc điện thoại mà Trần Văn Th đã sử dụng nhắn tin chụp ảnh nhằm mục đích đe dọa chiếm đoạt tài sản của chị Y.
- Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại số 0976676511 của Trần Văn Th.
- Trả lại cho chị Đào Thị Y chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy J7 vỏ màu hồng số Imei 1: 355228089563967, số Imei 2: 3552280895639654, lắp 2 sim thuê bao số 01659608515 số sêri sim 8984048841003242519 và số thuê bao 01258810615 số sêri sim 89840200010591333604.
Những vật chứng trên Công an huyện Y đã chuyển cho chi cục Thi hành án dân sự huyện Y theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 9 năm 2017 giữa Công an huyện Y và chi cục Thi hành án dân sự huyện Y.
[¬3/ Về án phí: Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Văn Th phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 33/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 33/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về