Bản án 33/2017/HS-ST ngày 18/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 33/2017/HS-ST NGÀY 18/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2017/TLST-HS ngày10 tháng 11 năm 2017 theo Quyết  định  đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn V; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1984 tại Điện Biên; nơi cư trú: Bản Na Cọ, xã ML, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 5/12 phổ thông; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P và bà Lò Thị P; vợ: Cà Thị Gvà 02 con: con lớn 11 tuổi, con nhỏ 06 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị tạm giữ từ ngày 17/8/2017 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 17/8/2017 tại bản N, xã MN, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, Tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang Lò Văn V đang cất giấu trong cạp quần đang mặc 01 gói được gói bên ngoài bằng hai lớp nilon màu hồng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng, có khối lượng 0,19 gam. Tại đây V khai đó là ma túy (chất Heroin) V mua về để sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa V khai: Khoảng 09 giờ ngày 17/8/2017 Lò Văn V thuê xe ôm đến xã PL, huyện Đ với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản Xẻ 2, xã Phu Luông, huyện Đ, V vào nhà Quàng Văn K hỏi và mua được 01 gói Heroin được gói ngoài bằng hai lớp nilon màu hồng, với giá 100.000 đồng, V mở ra xem thấy bên trong là Heroin nên đã hơ lửa hàn kín mép gói nilon lại rồi giấu vào trong cạp quần đi về nhà; khi đi đến bản N, xã MN, huyện Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại bản Cáo trạng số 206/QĐ-VKS-HS ngày 09/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố Lò Văn V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ Khoản 1 Điều 194, Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội và khoản 3 Điều 7,Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Lò Văn V từ 18 đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Heroin là vật chứng còn lại sau khi giám định.

- Căn cứ Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn V khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản Cáo trạng đã truy tố; sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo không có lời bào chữa và không tranh luận với Kiểm sát viên; tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về hòa nhập cộng đồng và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 17/8/2017 tại bản Na Khoang, xã ML, huyện Đ, Lò Văn V có hành vi cất giấu trái phép trong người 0,19 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo được chứng minh tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 50 phút ngày 17/8/2017; Biên bản niêm phong vật chứng và Biên bản  mở  niêm phong xác định trọng lượng và lấy mẫu giám định ngày 17/8/2017; Kết luận giám định số 703/GĐ-PC54 ngày 30/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Vật chứng thu giữ của bị cáo là Heroin, có khối lượng 0,19 gam - đây là chất ma túy được quy định tại Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ; lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đãtruy tố.

Do đó, có đủ cơ sở xác định: Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy trong người, với ý thức chủ quan là để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân mà Lò Văn V đã thực hiện là Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi đó là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước. Lò Văn V phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội Vđã có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố Lò Văn V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, cần áp dụng những  quy định có lợi cho bị cáo theo quy định của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và Khoản 3 Điều 7, Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[2] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Lò Văn V học hết lớp 5/12 phổ thông thì ở nhà làm ruộng và xây dựng gia đình; sử dụng ma túy từ năm 2016; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy Lò Văn V phạm tội nghiêm trọng; do nghiện ma túy nên mua ma túy về sử dụng thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, vì vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để bị cáo có thời gian từ bỏ ma túy và cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nghiện ma túy, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, không ổn định, kinh tế khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Lò Văn V khai nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ là mua của Quàng Văn K. Quá trình điều tra Kim không thừa nhận đã bán ma túy cho V; ngoài lời khai của bị cáo, không có người làm chứng và không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh Kim đã bán ma túy cho V vào sáng ngày 17/8/2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở xử lý đối với Quàng Văn K.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ của bị cáo là 0,19 gam Heroin, đã trích mẫu gửi giám định 0,07 gam Heroin, còn lại 0,12 gam Heroin là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Lò Văn V là dân tộc thiểu số, sinh sống ở bản, xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời bị cáo có đơn xin miễn án phí nêncăn cứ vào Điểm đ Khoản 1 Điều 12; Điều 14; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14; Khoản 3 Điều 7 và Điểm Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Lò Văn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (17/8/2017).

2. Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Heroin là vật chứng còn lại của vụ án (theo Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng ngày 17/8/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ).

3. Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điểm đ Khoản 1 Điều 12;  Điều  14;  Khoản  6  Điều  15  Nghị  quyết  số  326/2016/UBTVQH14  ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn V.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án(17/8/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2017/HS-ST ngày 18/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký




  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;