Bản án 33/2017/HSST ngày 02/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2017/HSST NGÀY 02/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 02 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2017/TLST- HS  ngày  12  tháng  7  năm  2017, theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số 82/2017/QĐXXST-HS, ngày 21/7/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vì Thị C – Sinh năm 1991, tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La

Nơi cư trú: Bản N, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 11/12; Dân tộc: Lào; con ông Vì Văn P và bà Lò Thị T; bị cáo có chồng là Lo Văn C và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Văn C1 – Sinh năm 1987

Nơi cư trú: Bản N, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ, ngày 28/3/2017, tại khu vực bản H, xã S, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã phát hiện bắt quả tang Vì Thị C, Lò Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 02 gói nilon bên trong có chứa 12 viên nén (gói nilon màu xanh chứa 09 viên trong đó có 07 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh, gói nilon màu hồng chứa 03 viên nén màu hồng) trong túi áo khoác bên trái của Lò Tiểu T đang mặc C khai nhận đó là ma túy tổng hợp do C cất dấu vào túi áo con trai, số tiền 300.000đ C giao nộp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave α màu xanh đen BKS 33M1- 1363. C và C1 đã bị bắt giữ dẫn giải đến Công an huyện Sốp Cộp tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngày 30/3/2017 tại Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong cân tịnh, lấy mẫu giám định. Kết quả cân tịnh 09 viên nén tổng hợp trong gói nilon màu xanh có trọng lượng 0,876 gam. Trích lấy 02 viên  nén màu xanh có có trọng lượng 0,194 gam làm mẫu giám định ký hiệu C1; 07 viên nén màu hồng có trọng lượng 0,682 gam làm mẫu giám định ký hiệu C2. Cân tịnh 03 viên nén màu hồng trong gói nilon màu hồng có trọng lượng 0,280 gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu C3 

Kết luận giám định số: 394/KLMT ngày 03/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C1, C2,C3 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine” Trọng lượng mẫu gửi giám định là 1,156 gam.

Kết luận giám định số: 264/KLGĐ   ngày 30/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận ‘Số tiền gửi giám định là tiền thật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vì Thị C khai nhận: Sáng ngày 27/3/ 2017 C cùng chồng là Lò Văn C1 và con trai là Lò Tiểu T đi xe máy từ nhà đến trung tâm huyện Sốp Cộp gửi xe máy tại nhà người quen rồi thuê xe Taxi đến thành phố Sơn La khám bệnh. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì thuê xe Taxi từ thành phố Sơn La quay về Sốp Cộp. Khi đi đến cầu K, xã H, huyện Sông Mã do chồng say xe nên C bảo dừng xe để tìm mua nước uống. C một mình xuống xe đi mua nước gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 21 viên ma túy tổng hợp với giá 600.000đ. Sau khi mua được ma túy C cất vào trong túi áo khoác đang mặc rồi quay lại xe cùng chồng, con đi về Sốp Cộp. Về đến Sốp Cộp C cùng chồng đi lấy xe máy rồi đến nhà anh Vì Văn H trú tại bản P, xã S, huyện Sốp Cộp ăn cơm và ngủ qua đêm. Đến khoảng 22 giờ ngày 27/3/2017 khi C đang đi bộ ngoài cổng nhà anh H thì có một người đàn ông không quen biết đến hỏi mua ma túy, C đã đồng ý và bán cho người đàn ông đó 06 viên ma túy với giá 300.000đ. Sau đó C vào nhà anh H đưa cho C1 02 viên ma túy để sử dụng rồi đi ngủ. Khoảng 9 giờ ngày 28/3/2017 C tiếp tục đưa cho C1 01 viên ma túy để sử dụng, số còn lại C cho 03 viên ma túy vào giấy nilon màu hồng gói lại, 09 viên ma túy vào giấy nilon màu xanh gói lại và cất vào túi áo đang mặc rồi cùng chồng, con đi xe máy về nhà. Khi đến khu vực bản H, xã S, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra, do sợ phát hiện nên C đã lấy ma túy trong túi áo của mình cất vào túi áo con trai là Lò Tiểu T đang mặc. Qua kiểm tra tổ công tác công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 12 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Vì Thị C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”  theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe máy đang bị thu giữ

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm l, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự đề nghị tuyên xử phạt bị cáo: Vì Thị C từ 24 đến 30 tháng tù; Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan  không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan   xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vì Thị C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ  1,156 gam Methamphetamine với mục đích cho chồng sử dụng và bán lại cho người khác để kiếm lời, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để  lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiện bị cáo là phụ nữ đang mang thai dó đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm l, p khoản 1 Điều 46 BLHS.

[5]  Xét về  nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tôt, trước khi xét xử bị cáo không có tiền án, tiền sự phạm tội lần đầu, trong quá trình sinh sống tại địa phương không có biểu hiện vi phạm pháp luật. Tuy nhiên để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với Lò Văn C1 căn cứ vào kết quả điều tra xét thấy việc C mua bán,  tàng  trữ  trái  phép chất  ma  túy  không  liên  quan  đến  C1  do  dó  ngày 29/3/2017 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sốp Cộp đã ra quyết định trả tự do đối với Lò Văn C1 là có căn cứ.

[7] Đối với người đàn ông đã trực tiếp mua 06 viên ma túy của C tối ngày 27/3/2017, C khai không biết tên, địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo không có căn cứ nào để điều tra xác minh nên không có căn cứ xử lý ở vụ án này.

[8] Đối với người đã trực tiếp bán chất ma túy cho bị cáo, hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác

[9] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave α màu xanh đen BKS 33M1 1363 đây là tài sản hợp pháp của ông Lò Văn C1, việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ông C1 không biết do đó cần xem xét trả lại chiệc xe máy trên cho ông C1. Đối với 1,156 gam Methamphetamine trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ để làm mẫu giám định và đã sử dụng hết. Đối với số tiền 300.000đ là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước

[10] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm mua bán trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự; nhưng xét thấy tài sản của bị cáo không có gì nên không áp dụng  hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo: Vì Thị C phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm l, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo: Vì Thị C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, được trừ đi thời gian tạm giữ là 09 ngày, còn phải chấp hành hình phạt là 23 tháng 21 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm  b khoản 1, khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm b, c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho ông Lò Văn C1 một chiếc xe máy nhãn hiệu Wave α màu xanh đen BKS 33M1-1363 số khung 196498 số máy 196576, tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 14/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Vì Thị C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm  là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 02/8/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn



722
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2017/HSST ngày 02/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;