Bản án 330/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 330/2020/HSST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long biên, thành phố Hà Nội. Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 346/2020/HSST ngày 27/11/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 380 ngày 09/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Tuấn A – sinh năm 1980; HKTT: Số S ngõ T, phường T, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Số F ngách B N, tổ C phường G, quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Lê Văn V (c) và bà: Nguyễn Ngọc T; vợ là: Hoàng Bích N (c), có 03 con lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 477 ngày 15/8/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự còn trong thời hiệu. Nhân thân: Bản án Hình sự phúc thẩm số 253 ngày 09/01/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ra trại ngày 04/12/2014. Bản án số 141/2020/HSST ngày 08/7/2020, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xử 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, Lê Tuấn A kháng cáo. Ngày 10/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đình chỉ xét xử phúc thẩm. Bị bắt ngày 12/8/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – CATP Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Lê Hồng K – sinh năm 1989; HKTT: Tổ H phường T, quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: phòng G , C, khu đô thị V, phường V, quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Lê Đình Hạnh; con bà: Lê Thị Cẩm N; vợ là: Đinh Thị Hồng H; có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 464 ngày 14/8/2020 do Công an quận Long Biên lập và chính quyền địa phương cung cấp thì bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bắt ngày 05/8/2020, hủy tạm giữ ngày 14/8/2020 và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Nguyễn Hồng S – sinh năm 1996; HKTT: Số F tổ G phường P, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Chỗ ở: Tổ M phường V, Long Biên, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn:

9/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Nguyễn Tuấn H (c); con bà: Nguyễn Mai P; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 466 ngày 14/8/2020 do Công an quận Long Biên lập và chính quyền địa phương cung cấp thì bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bắt ngày 06/8/2020, hủy tạm giữ ngày 14/8/2020 và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Dương Thị Hồng H2, sinh năm 1989 Cư trú: Số F ngách N, phường G, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

(Vắng mặt) 2. Chị Đinh Thị Hồng H3, sinh năm: 1989 HKTT: Tổ K phường T, quận Long Biên, thành phố Hà Nội (Có mặt).

3. Anh Đỗ Như C – Sinh năm: 1973, HKTT: A Q, phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12h30 phút ngày 05/8/2020, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Long Biên làm nhiệm vụ tại đường Lý S thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội phát hiện Lê Hồng K điều khiển xe đạp điện có biểu hiện nghi vấn nên đã dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, phát hiện túi quần bên trái phía trước K đang mặc có 01 gói nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, K khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa K về trụ sở giải quyết.

Cơ quan điều tra thu giữ của Lê Hồng K :

- 01 túi nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 xe đạp điện màu đỏ đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động Iphone màu hồng đã qua sử dụng Tại Kết luận giám định số 7328 ngày 14/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,397 gam.

Tiếp đó, hồi 17h55 phút ngày 06/8/2020, tổ công tác Công an phường Việt Hưng làm nhiệm vụ tại trước cửa số nhà 18 ngõ 80 Hoa Lâm, thuộc tổ 2 phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội phát hiện Nguyễn Hồng S điều khiển xe máy Attila màu bạc BKS: 29X2 - 8989 có biểu hiện nghi vấn nên đã dừng xe để tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, phát hiện bên trong thẻ nhân viên bảo vệ trong túi áo ngực bên phải S đang mặc có 01 túi nilong bên trong có tinh thể màu trắng. Tại chỗ, S khai nhận là ma túy đá S mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa S về trụ sở giải quyết.

Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Hồng S :

- 01 túi nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 thẻ nhân viên bảo vệ mang tên Nguyễn Hồng S ;

- 01 xe máy Attila màu ghi bạc, BKS: 29X2 - 8989;

- 01 điện thoại di động Nokia 2.3 Tại Kết luận giám định số 7346 ngày 14/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,297 gam.

Tại cơ quan điều tra, Lê Hồng K khai nhận: Do bản thân có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên khoảng 12h00’ ngày 05/8/2020, K sử dụng số điện thoại 0587736406 gọi đến số điện thoại 0869827780 của Lê Tuấn A hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, Tuấn A đồng ý và bảo K đến nhà Tuấn A tại số 4F, ngách 640/51 Nguyễn Văn Cừ để lấy ma túy. Đến nơi, K gặp và đưa cho Tuấn A tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, Tuấn A nhận tiền và đưa lại cho K 01 túi nilong ma túy đá và 200.000 đồng. K cất túi ma túy vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi về tìm nơi sử dụng. Khi K đi đến đường Lý S thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện túi ma túy trên. Sau đó, cơ quan công an đưa K cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Nguyễn Hồng S khai nhận: Do bản thân có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên khoảng 17h37 phút ngày 06/8/2020, S sử dụng số điện thoại 0856789296 gọi đến số điện thoại 0869827780 của Lê Tuấn A hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá, Tuấn A đồng ý. Do S không có tiền mặt nên S bảo Tuấn A cho số tài khoản ngân hàng để S chuyển khoản. Tuấn A đồng ý và gửi cho S số tài khoản 0021002185443 của Ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản Dương Thị Hồng H2. S chuyển số tiền 200.000 đồng vào số tài khoản trên rồi điều khiển xe máy Attila màu ghi bạc, BKS: 29X2 - 8989 đến nhà Tuấn A tại số 4F, ngách 640/51 Nguyễn Văn Cừ lấy ma túy. Tại đây, Tuấn A đưa cho S 01 túi nilong ma túy đá. S cất túi ma túy vào trong chiếc thẻ nhân viên bảo vệ để vào trong túi áo ngực bên phải S đang mặc và đi về tìm nơi sử dụng ma túy. Khi S đi đến trước cửa số nhà 18 ngõ 80 Hoa Lâm, phường Việt Hưng, quận Long Biên, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện số ma túy trên. Cơ quan công an đưa S và tang vật về trụ sở làm việc.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Tuấn A tại Số 4F, ngách 640/51 Nguyễn Văn Cừ, phường Gia Thụy, quận Long Biên, Hà Nội. Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra đã thu giữ: 03 túi nilong chứa tinh thể màu trắng; 01 cân điện tử màu đen; 01 bộ tẩu hút tự tạo, cóng thủy tinh chứa tinh thể màu trắng; 20 vỏ túi nilong chưa qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 7431 ngày 20/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,252 gam. Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,808 gam. Tinh thể màu trắng bên trong cóng thủy tinh của 01 bộ tẩu hút tự tạo là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,018 gam, 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy loại Methamphetamine.

Lê Tuấn A khai nhận: Khoảng đầu tháng 8/2020, Tuấn A đi đến khu vực chợ đầu mối Long Biên gặp và mua 01 túi ma túy của một người đàn ông tên Phương. Sau đó, Tuấn A về nhà dùng cân điện tử chia nhỏ số ma túy này vào các túi nilong nhỏ mục đích bán cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời. Tuấn A đã bán ma túy cho Lê Hồng K ngày 05/8/2020 và Nguyễn Hồng S ngày 06/8/2020. Số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ tại số 4F, ngách 640/51 Nguyễn Văn Cừ là của Tuấn A tàng trữ để bán kiếm lời nhưng chưa bán được thì bị phát hiện, thu giữ.

Tại phiên tòa, Lê Tuấn Anh, Lê Hồng K và Nguyễn Hồng S có lời khai thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng quy kết và phù hợp với nhau. Các bị cáo khẳng định không bị oan.

Tại bản cáo trạng số: 340/CT-VKS ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Lê Tuấn A về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Lê Hồng K , Nguyễn Hồng S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đưa ra các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 56 đối với bị cáo Lê Tuấn Anh; điểm c khoản 1 Điều 249 đối với các bị cáo Lê Hồng K và Nguyễn Hồng S ; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Lê Tuấn A mức án từ 07 năm 6 tháng đến 08 năm tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 141 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 11 năm đến 11 năm 6 tháng tù. Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Hồng K mức án từ 24 đến 30 tháng tù, bị cáo Nguyễn Hồng S mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng là hình phạt tiền vì các bị cáo không có thu nhập ổn định, thường xuyên. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu, tiêu hủy 1,772 gam Methamphetamine; 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy Methamphetamine; 01 cóng thủy tinh của tẩu hút tự tạo có dính ma túy Methamphetamine và 20 vỏ túi nilong kích thước 02x02 cm. Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, 01 điện thoại Iphone màu hồng, 01 điện thoại Nokia 2.3 và số tiền 200.000 đồng do các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội. Buộc bị cáo Lê Tuấn A phải truy nộp số tiền 300.000đồng thu lời bất chính để sung công quỹ Nhà nước Nói lời sau cùng: các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã ăn năn hối hận về việc làm của mình và xin được giảm nhẹ về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12h30 phút ngày 05/8/2020, tại đường Lý S , phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, bị cáo Lê Hồng K có hành vi tàng trữ trái phép 0,397 gam ma túy Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Đội CSĐT TP về ma túy - Công an quận Long Biên phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Hồi 18h15 phút ngày 06/8/2020, tại trước cửa số nhà 18 ngõ 80 phố Hoa Lâm, phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Hồng S có hành vi tàng trữ trái phép 0,297 gam ma túy Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phường Việt Hưng phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Bị cáo Lê Tuấn A có hành vi mua bán trái phép nhiều lần tổng số 1,772 gam ma túy Methamphetamine, cụ thể: Ngày 05/8/2020 bán cho Lê Hồng K 0,397 gam ma túy Methamphetamine, ngày 06/8/2020 bán cho Nguyễn Hồng S 0,297 gam ma túy Methamphetamine và tàng trữ trái phép 1,078 gam ma túy Methamphetamine tại nhà để bán kiếm lời. Hành vi của các bị cáo Lê Tuấn Anh, Lê Hồng K và Nguyễn Hồng S là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, hành vi của bị cáo Lê Tuấn A đủ dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi của các bị cáo Lê Hồng K và Nguyễn Hồng S đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét nhân thân bị cáo Lê Tuấn A có 01 tiền án: Bản án số 253/2012/HSPT ngày 09/01/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ra trại ngày 04/12/2014. Quá trình xác minh thi hành án thể hiện bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án, đối với phần bồi thường, do bị hại không có đơn yêu cầu thi hành án nên bản án đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật. Ngày 08/7/2020, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt Lê Tuấn A 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, Tuấn A kháng cáo. Ngày 10/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đình chỉ xét xử phúc thẩm do Tuấn A rút đơn kháng cáo. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bản án này chưa có hiệu lực pháp luật nên bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng tái phạm. Tuy nhiên do bản án này đã có hiệu lực pháp luật nên cần tổng hợp hình phạt của hai bản án buộc bị cáo Tuấn A phải chấp hành. Nhân thân bị cáo Nguyễn Hồng S có 1 tiền sự năm 2012 bị Công an quận Long Biên xử lý cảnh cáo về hành vi cưỡng đoạt tài sản, tiền sự này đã hết thời hiệu. Nhân thân bị cáo Lê Hồng K chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới giúp các bị cáo cai nghiện ma túy và phòng ngừa tội phạm. Đối với bị cáo Tuấn Anh, phạm cùng loại tội trong thời gian được tại ngoại của bản án trước nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Khi lượng hình, HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4].Về hình phạt bổ sung: do các bị cáo là đối tượng nghiện, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[5].Về biện pháp tư pháp: 1,772 gam Methamphetamine là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy. 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy Methamphetamine; 01 cóng thủy tinh của tẩu hút tự tạo có dính ma túy Methamphetamine và 20 vỏ túi nilong kích thước 02x02cm là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, 01 điện thoại Iphone màu hồng, 01 điện thoại Nokia 2.3 và số tiền 200.000 đồng là tang vật các bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với số tiền 300.000đồng bị cáo Lê Tuấn A thu lợi bất chính do bán ma túy cho K cần buộc bị cáo Tuấn A truy nộp để sung công quỹ Nhà nước. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6]. Đối với người đàn ông tên Phương bán ma túy cho Lê Tuấn A tại khu vực chợ Long Biên, Tuấn A khai không biết tên tuổi, địa chỉ ở đâu. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7].Đối với số tài khoản 0021002185443 của Ngân hàng Vietcombank, quá trình điều tra xác định là của Dương Thị Hồng H2. Tại cơ quan điều tra, Hạnh khai là bạn gái của Tuấn Anh, ngày 06/8/2020, Tuấn A mượn tài khoản của Hạnh để bạn của Tuấn A chuyển 200.000 đồng, Hạnh đồng ý. Hạnh không biết nguồn gốc và mục đích số tiền 200.000 đồng chuyển đến tài khoản của Hạnh. Việc Tuấn A bán ma túy Hạnh không biết. Do đó, cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Dương Thị Hồng H2. Hạnh đã tự nguyện rút số tiền 200.000 đồng trong tài khoản ngân hàng là tiền liên quan đến hành vi phạm tội của Tuấn A và giao nộp cho cơ quan điều tra.

[8]. Đối với điện thoại Iphone 7 Plus màu đen có sim thuê bao 0869827780 của Lê Tuấn A dùng để liên lạc mua bán ma túy, quá trình điều tra thể hiện số điện thoại này đăng ký tên Dương Minh Đức, sinh ngày 05/9/1979, địa chỉ: 4F/640/51 Nguyễn Văn Cừ, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Xác minh tại Công an phường Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội, kết quả: Tại địa chỉ trên không có ai tên Dương Minh Đức sinh sống. Bị cáo Tuấn A khai mua sim này ở cửa hàng bán sim điện thoại trên phố Ngọc Lâm, quận Long Biên, thành phố Hà Nội còn ai là người đăng kí chủ thuê bao Tuấn A không biết vì vậy cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

[9].Đối với điện thoại Nokia 2.3 có sim thuê bao 0856789296 Nguyễn Hồng S sử dụng để liên lạc mua ma túy của Lê Tuấn Anh, quá trình điều tra xác định số điện thoại trên đăng ký chính chủ tên Nguyễn Hồng S .

[10]. Đối với điện thoại Iphone màu hồng có sim thuê bao 0587736406 Lê Hồng K sử dụng để liên lạc mua ma túy của Lê Tuấn Anh, quá trình điều tra xác định số điện thoại đăng ký tên Lê Hồng Ngân, sinh ngày 02/11/1991, trú tại Lai Châu, Lê Hồng K khai mua sim khuyến mại và không biết Lê Hồng Ngân là ai nên cơ quan điều tra không có điều kiện làm rõ.

[11]. Đối với chiếc xe đạp điện màu đỏ thu giữ của Lê Hồng K , quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của chị Đinh Thị Hồng H3 – vợ của K . Chị Hạnh khai chị mua mới chiếc xe đạp điện trên năm 2015 dùng làm phương tiện đi lại, ngày 05/8/2020, Lê Hồng K là chồng chị Hạnh mượn xe để đi làm. Việc K dùng xe đạp điện đi mua ma túy chị Hạnh không biết. Ngày 12/10/2020, Cơ quan điều tra trao trả chiếc xe đạp điện trên cho chị Đinh Thị Hồng H3. Chị Đinh Thị Hồng H3 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11].Đối với chiếc xe máy Attila màu ghi bạc, BKS: 29X2-8989 thu giữ của Nguyễn Hồng S , xe đăng ký tên Nguyễn Thị Bích Ngọc (SN: 20/9/1975, trú tại: 14 ngách 211/1 phố Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, chị Ngọc khai mua mới chiếc xe máy trên năm 2006, xe đăng ký chính chủ, đến năm 2019 do không còn nhu cầu sử dụng nên chị Ngọc đã bán xe cho một người đàn ông không quen biết. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản của anh Đỗ Như C là bố nuôi của bị cáo S , anh C mua lại xe tháng 3/2020, chưa sang tên đổi chủ. Ngày 06/8/2020, anh C cho S mượn đi lại, việc S sử dụng xe đi mua ma túy anh C không biết. Ngày 02/11/2020, Cơ quan điều tra trao trả chiếc xe máy trên cho anh Đỗ Như C . Anh C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên HĐXX không xem xét.

[11].Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 56 (đối với bị cáo Lê Tuấn Anh), điểm c khoản 1 Điều 249 (đối với bị cáo K , S ), điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn A phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, các bị cáo Lê Hồng K Nguyễn Hồng S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt: Lê Tuấn A 08 (Tám) năm tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số 141/2020/HSST ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội (Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 956/2020/HSPT-QĐ ngày 10/12/2020) xử phạt Lê Tuấn A 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, án đã có hiệu lực pháp luật. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 11 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020. Được trừ thời gian tạm giữ của bán án trước từ ngày 17/12/2019 đến ngày 26/12/2019.

- Xử phạt: Lê Hồng K 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/8/2020 đến ngày 14/8/2020.

- Xử phạt: Nguyễn Hồng S 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 06/8/2020 đến ngày 14/8/2020.

3. Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu huỷ 1,772 gam Methamphetamine; 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy Methamphetamine; 01 cóng thủy tinh của tẩu hút tự tạo có dính ma túy Methamphetamine và 20 vỏ túi nilong kích thước 02x02 cm hiện có tại Kho vật chứng - Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 26/8/2020.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, 01 điện thoại Iphone màu hồng, 01 điện thoại Nokia 2.3 và số tiền 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng). Tài sản hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/11/2020 và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 27/11/2020.

- Buộc bị cáo Lê Tuấn A phải truy nộp số tiền 300.000đồng để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao nhận bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 330/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:330/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;