Bản án 330/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 330/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 927/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp 4, xã TN, huyện VL, tỉnh VL; Tạm trú: 2273A/44/4 PTH, Phường Đ, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Phan Văn P, sinh năm 1981; Địa chỉ: Ấp 4, xã TN, huyện VL, tỉnh VL; Tạm trú: 2273A/44/4 PTH, Phường Đ, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 30/8/2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị R trình bày: Bà và Ông Phan Văn P chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã TN, huyện VL, tỉnh VL theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73, Quyển số 01 ngày 21/7/2011. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2016, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông P thường xuyên ăn nhậu, không quan tâm gia đình con cái, nhiều lần đánh bà làm ảnh hưởng đến tinh thần của bà và tâm lý của con. Cuộc sống hôn nhân của bà và ông P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể hàn gắn; cả hai đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, gia đình không hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với Ông Phan Văn P.

Về con chung: Bà và ông P có 01 con chung tên Phan Nguyễn Hoàng S sinh ngày 23/9/2012. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời gian chung sống bà và ông P không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Ông Phan Văn P trình bày: Ông xác nhận lời trình bày của bà R về thời gian kết hôn, về con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Ông và bà R phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016 do hai bên không hợp tính tình nên thường cãi nhau, bà R không quan tâm đến việc gia đình, chồng con, do buồn vợ nên ông có cùng bạn bè uống rượu sau giờ làm việc. Tuy vợ chồng sống cùng nhà nhưng đã ly thân gần 03 năm nay. Ông đề nghị Tòa án cho vợ chồng ông có thời gian giải quyết mâu thuẫn để hàn gắn gia đình. Trường hợp Tòa giải quyết cho hai bên ly hôn thì ông yêu cầu được nuôi con chung tên Phan Nguyễn Hoàng S sinh ngày 23/9/2012, ông không yêu cầu bà R cấp dưỡng nuôi con. Trong thời gian chung sống ông và bà R không có tài sản chung và không nợ chung.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn - Bà Nguyễn Thị R có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa Bị đơn – Ông Phan Văn P vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị R và Ông Phan Văn P có đăng ký kết hôn, bà R yêu cầu ly hôn với ông P, xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “tranh chấp ly hôn”.

Hiện nay, bị đơn là Ông Phan Văn P đang cư trú tại Quận 8 (Theo kết quả xác minh của Công an Phường E, Quận H) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị R có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt bà R.

Bị đơn Ông Phan Văn P, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng ông P vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông P.

[3] Về yêu cầu của các đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73, Quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã TN, huyện VL, tỉnh VL cấp ngày 21/7/2011, cùng lời khai của bà R về việc các đương sự tự nguyện kết hôn với nhau, nên đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà R và ông P là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà R: Trong quá trình chung sống, bà R và ông P xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không có sự cảm thông, chia sẻ với nhau; ông P không quan tâm, chăm sóc vợ con và nhiều lần đánh bà gây ảnh hưởng đến tinh thần của bà. Hai bên đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn, tìm tiếng nói chung nhưng không đạt được kết quả mà tình trạng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Bà và ông P tuy vẫn sống chung nhà nhưng đã không còn quan tâm đến nhau. Bà R xác định vợ chồng không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân với ông P.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích trên cơ sở yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ các công việc trong gia đình, đồng thời vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Bà R và ông P đã không tôn trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, Tòa án đã cho ông P và bà R thời gian để các bên giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả, bà R vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với ông P. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà R là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Bà R và ông P có 01 con chung Phan Nguyễn Hoàng S sinh ngày 23/9/2012. Bà R và ông P đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu bên không trược tiếp nuôi dưỡng cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 18/10/2019, Tòa án yêu cầu ông P và bà R cung cấp Hợp đồng lao động và bảng lương để chứng minh thu nhập của mình. Tuy nhiên, chỉ có bà R cung cấp cho Tòa án giấy xác nhận thể hiện bà đang làm công nhân may và có thu nhập ổn định; còn ông P không cung cấp tài liệu theo yêu cầu của Tòa. Đồng thời, theo bản tự khai ngày 19/02/2020 thì trẻ Sang cùng có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, việc giao trẻ Sang cho bà R trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở, phù hợp với nguyện vọng của trẻ và quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà R không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà R và ông P cùng thống nhất ông bà không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà R phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị R về việc xin ly hôn với Ông Phan Văn P.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị R được ly hôn với Ông Phan Văn P.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 73, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã TN, huyện VL, tỉnh VL cấp ngày 21/7/2011).

- Về con chung: Giao cho Bà Nguyễn Thị R trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phan Nguyễn Hoàng S sinh ngày 23/9/2012. Ghi nhận việc bà R không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phan Văn P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Bà Nguyễn Thị R phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà R đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0018120 ngày 04/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà R đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị R, Ông Phan Văn P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 330/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:330/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;