TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 326/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 64/2021/TLST- HNGĐ ngày 02/02/2021 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/4/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Hồng L, sinh năm 1994;
Địa chỉ: ấp TH, xã ATĐ, huyện CB, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Phan Thành T, sinh năm 1993;
Địa chỉ: ấp T2, xã LĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.
(chị L có mặt, anh T có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 01/02/2021 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Nguyễn Hồng L trình bày:
Chị và anh T do quen biết tình cảm được hơn 04 năm, được cha mẹ hai bên đồng ý, anh chị tiến hành làm đám cưới vào cuối năm 2016. Vào ngày 31/7/2017, anh chị đăng ký kết hôn tại UBND xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, theo giấy chứng nhận kết hôn số 47. Sau khi cưới, cả hai sống bên nhà cha mẹ anh T ở ấp T2, xã LĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang được 01 tháng, thì anh T cùng chị L về quê vợ sinh sống và lập nghiệp ở xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Hai vợ chồng buôn bán hải sản qua mạng, đến năm 2019 anh chị mở cửa hàng buôn bán hải sản ở ấp Thái Hòa, xã An Thái Đông (gần nhà cha mẹ chị L). Khoảng cuối tháng 3/2021, anh T bế con bỏ đi, đi đâu thì chị L không rõ, vì anh T không cho chị biết.
Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân anh T không lo làm ăn, thường tụ tập bạn bè đi chơi, về đến nhà thì lại cầm điện thoại chơi “game” trên mạng, bỏ bê vợ con, bỏ bê việc buôn bán của vợ chồng, để mình chị gánh vác. Chị L và cha mẹ chị L nhiều lần khuyên anh T nên sửa đổi tính tình, nhưng anh T không nghe lời khuyên. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh T có khi bỏ nhà đi chơi với bạn bè qua đêm mới về. Nhận thấy, cả hai không thể nào sống hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều và trầm trọng hơn, nên nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị các vấn đề sau:
- Về hôn nhân: Chị L yêu cầu được ly hôn với anh T.
- Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Phan Thành N, sinh ngày 10/9/2017. Hiện tại cháu đang sống cùng anh T. Sau khi ly hôn, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, chị đồng ý để anh T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo luật định mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
* Bị đơn anh Phan Thành T có đơn xin vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án (đơn đề ngày 16/4/2021), nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 06/4/2021, anh T trình bày :
Vào tháng 7/2017, hai người chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc chị L ly hôn với anh là do mua bán hải sản thua lỗ. Anh không đồng ý ly hôn với chị L, do anh còn thương vợ, mong muốn đoàn tụ gia đình. Anh và chị L ly thân khoảng 06 tháng nay. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phan Thành N, sinh ngày 10/9/2017, không yêu cầu chị L cấp dưỡng.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa hôm nay:
Chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Anh T vắng mặt (có đơn).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang trình bày ý kiến: Về phần thủ tục, kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã chấp hành và tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án, trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt anh T.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ vào Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định vụ án có quan hệ tranh chấp “Ly hôn”.
[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Hồng L và anh Phan Thành T xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp, được Ủy ban nhân dân xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 47 ngày 31/7/2017.
Tại phiên tòa, chị L trình bày nguyên nhân chính dẫn đến việc chị yêu cầu ly hôn với anh T là do anh T không lo làm ăn để phát triển kinh kế gia đình, anh để chị một mình gánh vác việc mua bán hải sản, lo cho con nhỏ; anh còn thường tụ tập bạn bè chơi bời, có khi qua đêm sáng mới về nhà, về đến nhà không chăm con, cũng không phụ chị giao hải sản cho khách, cứ cầm điện thoại chơi “game”. Nhiều lần chị và cha mẹ chị khuyên anh T sửa đổi, nhưng anh T không nghe. Từ đó, vợ chồng thường cãi nhau, tình cảm chị dành cho anh T dần dần không còn, vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng ly thân đã được 06 tháng, đến gần cuối tháng 3/2021 anh T tự ý bế con bỏ nhà đi về bên quê mẹ anh T sống cho đến nay, anh gây khó khăn khi chị tìm gặp để thăm con chung. Nay chị kiên quyết ly hôn với anh T.
Lời trình bày này của chị L hoàn toàn phù hợp với nội dung hai biên bản xác minh ngày 06/4/2021 (bút lục 23, 24). Anh T mong muốn được đoàn tụ, không đồng ý ly hôn với chị (bút lục 28), nhưng anh lại có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, lý do bận công việc, thường xuyên đi xa. Điều này chứng tỏ anh T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị L.
Qua những phân tích trên, xét thấy đời sống vợ chồng giữa anh T, chị L không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không hạnh phúc, anh chị không tìm được cách giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét yêu cầu xin ly hôn anh T của chị L là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Phan Thành N, sinh ngày 10/9/2017. Xét thấy, cháu Nhân còn quá nhỏ, suốt thời gian từ khi sanh ra đến nay, cháu Nhân sống chủ yếu bên nhà ngoại, ngoài sự chăm sóc, nuôi dưỡng của ba mẹ, cháu còn được ông bà ngoại phụ chăm sóc mỗi khi ba mẹ bận buôn bán. Hơn nữa, qua xác minh (bút lục 23, 24), xét thấy chị L có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung hơn anh T; tại đơn xin vắng mặt ngày 16/4/2021 (bút lục 29) anh T trình bày là anh bận công việc, thường xuyên đi xa. Vì lẽ đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành. Anh T tạm thời chưa cấp dưỡng nuôi con chung, do chị L không yêu cầu. Sau khi ly hôn, anh T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo luật định, không ai được quyền cản trở được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 và Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang phù hợp với những nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 81, Khoản 3 Điều 82, Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử :
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng L.
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Hồng L được ly hôn với anh Phan Thành T.
- Về con chung: Buộc anh T phải giao con chung Phan Thành N, sinh ngày 10/9/2017 cho chị L trực tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành. Anh T tạm thời chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung theo luật định, mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: Không có.
2/ Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000đồng tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003915 ngày 01/2/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Như vậy, chị đã nộp xong án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
3/ Quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 326/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 326/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về