Bản án 324/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 324/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 442/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3730/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

NGUYỄN XUÂN T, Sinh năm: 1995 tại tỉnh An Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp ĐS, thị trấn NS, huyện TS, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: số 16/1A1, đường số X, phường HBC, quận TĐ, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân H và bà: Nguyễn Thị Thùy D; chưa có vợ con; tiền sự: không;

Tiền án: Ngày 27/4/2016, bị Tòa án nhân dân quận BT, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 81/HSST).

Tm giam ngày 07/03/2018. (Có mặt).

Bị hại: Anh N B, sinh năm 1989 tại Pháp, quốc tịch: Pháp.

Nơi cư trú: 116-7272 SALIBURY AUE BURNABY BC V5E 3A2

Tạm trú: 149 ĐT, phường CG, Quận Y, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/03/2018, Nguyễn Xuân T điều khiển xe gắn máy biển số 54Z7-7776 lưu thông trên đường TH, phường A, Quận C, khi đến đối diện nhà số 101/50D9 đường TH, phường A, Quận C, T nhìn thấy anh KK điều khiển xe gắn máy biển số 70L6-22118 chở anh N B, (đều có quốc tịch Pháp) lưu thông cùng chiều, anh N B ngồi sau, tay phải đang cầm một chiếc điện thoại di động. Trí nảy sinh ý định cướp giật điện thoại di động trên, nên điều khiển xe áp sát bên phải xe của anh KK rồi dùng tay trái giật điện thoại di động của anh N B đang cầm trên tay, điều khiển xe bỏ chạy vào hẽm số 57 đường TH, anh KKcùng người dân hỗ trợ đuổi theo đến trước nhà số 57/8/1A TH thì bắt giữ được Trí cùng tang vật đưa về trụ sở Công an phường A, Quận C lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Theo biên bản họp ngày 20/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận C kết luận điện thoại di động hiệu Xiaomi MI6 của bị hại anh N B có trị giá 6.000.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên phù hợp với biên bản lấy lời khai của bị hại, người làm chứng.

-Vật chứng thu giữ gồm:

+01 điện thoại di động màu đen hiệu Xiaomi MI6 đã qua sử dụng số Imei (slot 1): 866654036159322; số Imei (slot 2): 866654036159330, Meid: 9900091330797, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại cho anh N B;

+01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 54Z7-7776, số máy: JF27E- 0294199; số khung Y-253119 màu đen, đã qua sử dụng không rõ bên trong máy. Qua xác minh chiếc xe trên của ông Bùi Chánh Quỳnh Q là chú ruột của bị can T. Ông Qui khai cho trí mượn và không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả lại cho ông Qui;

- Phần dân sự: anh N B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số: 299/CT-VKS-P2 ngày 27/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T từ 04 (bốn) – 05 (năm) năm tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Xuân T thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh N B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường, vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/03/2018, khi đang lưu thông trên đường đến trước số nhà 101/50D9 TH, phường A, Quận C, T nhìn thấy anh KK điều khiển xe gắn máy chở anh N B, (đều có quốc tịch Pháp) lưu thông cùng chiều, anh N B ngồi sau, tay phải đang cầm một chiếc điện thoại di động. T đã nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại di động trên. Lợi dụng sơ hở của bị hại T nhanh chóng điều khiển xe biển số 54Z7-7776 áp sát bên phải xe của anh KK rồi dùng tay trái giật điện thoại di động của anh N B ngồi sau, rồi điều khiển xe bỏ chạy sau đó T bị anh KK cùng người dân hỗ trợ bắt giữ cùng tang vật đưa về trụ sở Công an phường A, Quận C. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trí đã phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn giao thông tại địa phương. Trước tình hình giao thông diễn biến phức tạp như hiện nay, hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là xe gắn máy, có tính nguy hiểm rất cao làm phương tiện phạm tội có thể xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của bị hại cũng như những người dân đang lưu thông trên đường. Bản thân bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng lại cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, làm xấu đi hình ảnh văn hóa của người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Do đó, cần áp dụng tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo mức án đủ nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được giao trả cho người bị hại nên cần áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án nhân dân quận BT thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 81/HSST ngày 27/4/2016) chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm” quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để cân nhắc, xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh N B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

+01 điện thoại di động màu đen hiệu Xiaomi MI6 đã qua sử dụng số Imei (slot 1): 866654036159322; số Imei (slot 2): 866654036159330, Meid: 9900091330797, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại cho anh N B do đó Hội đồng xét xử không xem xét;

+01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 54Z7-7776, số máy: JF27E- 0294199; số khung Y-253119 màu đen, đã qua sử dụng không rõ bên trong máy. Qua xác minh chiếc xe trên của ông Bùi Chánh Quỳnh Q là chú ruột của bị can T. Ông Q khai cho trí mượn và không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả lại cho ông Q do đó Hội đồng xét xử không xem xét;

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s, h khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/03/2018.

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 324/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:324/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;