Bản án 32/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 02 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2024/TLST-HS, ngày 15 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trường G; Giới tính: Nam; Sinh năm 1993 tại tỉnh A; Nơi thường trú: Ấp Bàu Công, xã T, huyện Đ, tỉnh A. Nơi cư trú: Phòng số 59A, nhà trọ ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh A; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X và bà Phạm Thị Đ; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 20/3/2017, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 30/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng. Chấp hành xong quyết định ngày 20/8/2018.

Ngày 23/8/2019, Toà án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 531/2019/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Chấp hành xong quyết định ngày 01/5/2021 Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/8/2023. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ông Tạ Văn K, sinh năm 1990; Nơi cư trú: 215 tỉnh lộ 825, ấp 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh A (vắng mặt)

2/ Ông Ngô Văn T, sinh năm 1953; Nơi cư trú: Số 13, Tổ 36, khu phố L, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt)

3/ Ông Nguyễn Ngọc T1 – Đại diện khách sạn Đ, địa chỉ 5D46 G, Ấp 5, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 35 phút ngày 31/8/2023, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện B phối hợp Công an xã P, huyện B tiến hành kiểm tra bị cáo Nguyễn Trường G tại khu vực quầy lễ tân của khách sạn Đ, địa chỉ 5D46 G, Ấp 5, xã P, huyện B. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong tay phải của bị cáo đang cầm 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, bị cáo khai nhận là ma túy tổng hợp (hàng đá) cất giữ để bán cho người khác kiếm lời. Do đó, Cơ quan Công an lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo, thu giữ, niêm phong vật chứng, đưa bị cáo về trụ sở Công an xã P lập hồ sơ, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý. Kết quả xét nghiệm cho thấy bị cáo dương tính với Methamphetamine.

Cơ quan Công an tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo tại phòng số 59A, nhà trọ địa chỉ ấp Bình Tiền 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh A, phát hiện trên bàn bên cạnh nệm ngủ trong phòng của bị cáo có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu mà bị cáo khai nhận là ma túy đá của bị cáo cất giữ để bán lại cho người khác kiếm lời và một số đồ vật để phân chia, sử dụng ma tuý nên đã tiến hành thu giữ toàn bộ vật chứng.

Kết luận giám định số 9629/KL-KTHS ngày 08/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định:

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon thu giữ trên tay phải của Nguyễn Trường G là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9974 gam, loại Methamphetamine.

Tinh thể không màu trong 01 gói nylon thu giữ tại chỗ ở của Nguyễn Trường G là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4494 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Trường G khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy được khoảng 05 năm. Do cần tiền để tiêu xài và mua ma tuý sử dụng nên bị cáo bắt đầu mua bán trái phép chất ma tuý được khoảng 01 tuần tính đến ngày bị bắt. Vào khoảng 15 giờ ngày 31/8/2023, 01 người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) sử dụng tài khoản Zalo là “A Kua. Hanh” liên lạc với bị cáo qua tài khoản Zalo tên “Nhoc bui” đặt mua một hộp 5 ma túy đá với giá 2.000.000 đồng, bị cáo đồng ý và hẹn giao dịch tại Phòng 103 khách sạn Đ, địa chỉ 5D46 G, Ấp 5, xã P, huyện B. Sau đó, bị cáo sử dụng điện thoại liên lạc với một người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) hỏi mua một hộp 5 ma túy đá với giá 1.500.000 đồng, hẹn giao dịch tại khu vực Cầu Đôi trên đường G. Bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 70K6-xxxx đến trước địa chỉ 5D13 G, Ấp 5, xã P thì gặp Th, mua được 01 gói ma túy với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, bị cáo cất giữ gói ma túy vào trong người rồi điều khiển xe mô tô biển số 70K6-xxxx đến khách sạn Đ để bán cho T. Đến khoảng 17 giờ 35 phút cùng ngày, khi bị cáo cầm gói ma tuý trên tay phải đến trước quầy lễ tân của khách sạn Đ thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Ngoài ra, bị cáo khai nhận trước đây đã bán ma tuý cho Th 01 lần cách ngày bị bắt khoảng 03 ngày với giá 1.000.000 đồng tại khách sạn Đ. Ngoài Th ra thì bị cáo chưa bán được ma tuý cho ai khác. Đối với gói ma tuý mà bị cáo cất giữ tại chỗ ở là phòng số 59A, nhà trọ địa chỉ ấp 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh A, bị cáo khai nguồn gốc là do bị cáo mua của Th cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần, mục đích bị cáo cất giữ để bán lại cho người khác kiếm lời.

Kết quả xác minh tại Khách sạn Đ, trong khoảng thời gian trên không có khách nào đến đăng ký lưu trú tại Phòng 103 và cũng không ai tên Th đến thuê phòng.

Cáo trạng số 28/CT-VKSBC ngày 08/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Trường G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trường G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng để sung Ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với: 02 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu là ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamin còn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) ống hút nhựa có một đầu cắt nhọn; 03 (ba) gói nylon chưa qua sử dụng; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO; 01 (một) xe mô tô gắn biển số 70K6 – xxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Ngày 31/8/2023, bị cáo Nguyễn Trường G đã có hành vi tàng trữ 4,9974 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine với mục đích bán lại cho người khác kiếm lời thì bị bắt quả tang tại khu vực quầy lễ tân của khách sạn Đ, địa chỉ 5D46 G, Ấp 5, xã P, huyện B. Ngoài ra, Cơ quan điều tra khám xét tại nơi ở của bị cáo tại phòng số 59A, nhà trọ địa chỉ ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh A đã thu giữ 0,4494 gam ma túy thể rắn, loại Methamphetamine. Tổng cộng bị cáo tàng trữ 5,4468 gam ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamine với mục đích bán lại cho người khác kiếm lời.

Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Trường G đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với việc Nguyễn Trường G khai đã bán ma tuý 01 lần trước đây, do chỉ có duy nhất lời khai của G, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân nhiều lần bị áp dụng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo một số tiền để sung Ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Đối với người đàn ông tên Th đã bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên Th đã mua ma túy của bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục truy xét, khi nào xác định được lai lịch thì xử lý sau.

Đối với anh Tạ Văn K là người cho Nguyễn Trường G thuê phòng trọ số 59A, nhà trọ địa chỉ ấp Bình Tiền 2, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh A, do không biết việc bị cáo cất giữ ma tuý tại phòng trọ nên không xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 bịch nylon bên trong chứa tinh thể không màu là ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamin còn lại sau giám định, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) ống hút nhựa có một đầu cắt nhọn; 03 (ba) gói nylon chưa qua sử dụng: Đây là những vật cấm lưu hành và liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO cùng 02 sim mà bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma tuý. Xét thấy, cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) xe mô tô gắn biển số 70K6 – xxxx, số khung VDGDCG 013DG010379 mà bị cáo khai mua lại của người không rõ lai lịch để làm phương tiện đi lại. Qua giám định xác định số khung và số máy đã bị cắt hàn, mài mất số, không xác định được số nguyên thuỷ. Qua tra cứu, biển số 70K6-xxxx được cấp cho xe mô tô do ông Ngô Văn T đứng tên chủ sở hữu. Xét thấy xe này có nguồn gốc không rõ ràng nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G: 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2023.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung Ngân sách Nhà nước.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên bị cáo, Điều tra viên và hình dấu Công an xã P, huyện B ghi số vụ 1938/2023, bên trong là ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamin còn lại sau giám định; 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên bị cáo, Điều tra viên và hình dấu Công an xã Đ, huyện Đ, tỉnh A ghi số vụ 1938/2023, bên trong là ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamin còn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) ống hút nhựa có một đầu cắt nhọn; 03 (ba) gói nylon chưa qua sử dụng.

2.2. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO cùng 02 sim thu giữ của bị cáo; 01 (một) xe mô tô gắn biển số 70K6 – xxxx, số khung VDGDCG 013DG010379.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 15/01/2024 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

3. Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Trường G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

375
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp)

Số hiệu:32/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;