TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2023/HSST-QĐ ngày 05 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:
Trần M, sinh ngày 09 tháng 5 năm 2005 tại thành phố N, tỉnh Hậu Giang (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo 16 tuổi 10 tháng 12 ngày); nơi cư trú: Khu vực A, phường H, thành phố N, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Duy T (chết) và bà Nguyễn Thị Trúc L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa từng có tiền án, tiền sự, chưa bị xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2022 cho đến nay. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thanh H - Luật sư của Văn phòng Luật sư N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hậu Giang. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Trần Duy V, sinh năm 1980; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, thành phố N, tỉnh Hậu Giang; là bác ruột của bị cáo. Có mặt.
- Đại diện cơ quan, tổ chức nơi bị cáo học tập, lao động, sinh hoạt:
Ông Phạm Hoài B - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường H, thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
- Bị hại: Lê Minh T, sinh ngày 12 tháng 02 năm 2005 Nơi cư trú: Khu vực A, phường L, thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Lê Thành T1. Vắng mặt.
2. Nguyễn Tấn H. Có mặt.
3. Phạm Nguyễn Gia K. Có mặt.
4. Lương Văn T2. Có mặt.
5. Trần Duy T3. Có mặt.
6. Thái Sư. Vắng mặt.
7. Trần Minh T4. Có mặt.
8. Nguyễn Văn Kh. Có mặt.
9. Lê Thành Th. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 21 tháng 3 năm 2022, Lê Thành T1 tổ chức nhậu tại nhà, gồm: Lê Thành T1, Lương Văn T2, Nguyễn Hoài Th, Lê Thành Th, Trần Minh T4, Văn Thị Bé Th, Nguyễn Tấn H, Trần Duy T3, và Trần M. Đến 23 giờ cùng ngày, Trần Minh T4 điện thoại rủ Phạm Nguyễn Gia K đến nhà T nhậu.
Đến khoảng hơn 00 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2022, K cùng với Lê Minh T đến nhà T1. Khi đến nhà T1, K cầm theo một cây dao dài khoảng 01m (cây dao này Trần Minh T4 nhờ T1 mượn giúp) đi thẳng vào trong nhà T1 cất và không nói chuyện với ai. Trước đó, do M có mâu thuẫn với K nên khi thấy K vào nhà T1 có cầm theo cây dao, M đã lấy cây dao Thái Lan cán màu vàng dùng gọt trái cây tại tiệc nhậu; T3 cầm dao dùng xắt thịt tại tiệc nhậu rồi cùng đứng lên cự cải với K và Lê Minh T. Lê Minh T tiến đến gần chỗ của M, dùng tay phải đánh vào cổ của M một cái, M dùng dao đâm liên tiếp vào người của Lê Minh T trúng 02 nhát vào vùng bụng, 01 nhát vào vùng lưng. Sau khi bị đâm, Lê Minh T bỏ chạy ra lộ và được Thái S đưa đi cấp tại Bệnh viện Đa khoa thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Sau khi gây án Trần M đã rời khỏi địa phương.
Ngày 03 tháng 8 năm 2022, Trần M bị Cơ quan điều tra bắt khi đang lưu trú tại phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 82/22/TgT ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Trung tâm Pháp y, thuộc Sở Y tế tỉnh Hậu Giang kết luận đối với Lê Minh T như sau:
1. Dấu hiệu chính tại thời điểm giám định: Đa vết thương phần mềm; đa vết phẫu thuật; vết thương hạ sườn phải, thấu bụng, thủng đa tạng.
2. Kết luận:
2.1. Tỷ lệ thương tích từng vết thương:
-Vết thương hạ sườn phải hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là 58%.
01%.
03%.
01%.
- Vết thương hạ sườn trái hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là - Vết phẫu thuật đường trắng giữa hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là - Vết dẫn lưu hố chậu phải hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là - Vết thương sau vai trái hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là 01%.
2.2. Tổng tỷ lệ phần trăm thương tích hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT- BYT là 60%.
2.3. Tổng tỷ lệ phần trăm thương tích các vết thương ở bụng hiện tại là. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là 59%.
2.4. Vật gây thương tích: Vết thương do vật sắc nhọn gây nên.
Vật chứng thu giữ trong vụ án là 01 (một) cây kéo kim loại, dài 23 cm, cán có vỏ nhựa màu đen, đã được chuyển giao cho Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang quản lý.
Tại Cáo trạng số 15/CT-VKSHG-P1 ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, đã truy tố Trần M về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần M phạm tội “Giết người”.
2. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91 và Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần M mức án từ 07 năm đến 08 năm tù.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Duy V, thay bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền là 24.000.000 đồng.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây kéo kim loại, dài 23 cm, cán có vỏ nhựa màu đen.
5. Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa:
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại yêu cầu: Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 24.000.000 đồng; về trách nhiệm hình sự: Yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.
Đại diện hợp pháp của bị cáo, ông Trần Duy V tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền là 24.000.000 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc các vấn đề như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức hạn chế; gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại; có nhân thân tốt; cha mất sớm, mẹ bỏ đi lúc còn nhỏ; sự việc có một phần lỗi của bị hại để xem xét áp dụng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:
Trong vụ án có bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi. Nhưng quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng để bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, đoàn thanh niên hoặc tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 và quy định tại các điều 414, 420 và 421 của Bộ luật tố tụng hình sự. Vấn đề này đã được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đề nghị khắc phục vi phạm, nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận. Tuy nhiên, đến thời điểm xét xử sơ thẩm, bị cáo và bị hại đều đã trên 18 tuổi; tại phiên tòa, bị cáo và bị hại đều xác định việc lấy lời khai, hỏi cung là khách quan nên yêu cầu không đặt ra xem xét. Do đó, xét những vi phạm này không làm thay đổi bản chất vụ án nên không cần thiết đặt ra xem xét.
Đối với hành vi, quyết định tố tụng khác đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng khác của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác; phù hợp với kết quả giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Từ đó đã có cơ sở kết luận:
Khoảng hơn 00 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2022, do trước đó bị cáo có mâu thuẫn với K nên khi thấy K và bị hại vào nhà T1 có cầm theo cây dao đi thẳng vào trong nhà T1 cất, bị cáo đã lấy cây dao Thái Lan cán màu vàng dùng để gọt trái cây tại tiệc nhậu đứng lên cự cải với K và bị hại. Khi bị hại tiến đến gần bị cáo, dùng tay phải đánh vào cổ của bị cáo một cái, bị cáo đã dùng dao đâm vào người của bị hại gây đa vết thương phần mềm, thấu bụng và thủng đa tạng với tổng tỷ lệ thương tích là 59%.
Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt xảy ra trước đó, bị cáo đã chủ động gây hấn, cự cãi với bị hại rồi dùng dao Thái Lan là vật sắc, nhọn đâm bị hại liên tiếp 03 nhát là thuộc trường hợp “Có tính chất côn đồ”. Các vết thương bị cáo gây ra cho bị hại tại vùng hạ sườn bên phải và hạ sườn bên trái là vùng trọng yếu trên cơ thể, gây thấu bụng và thủng đa tạng, nếu bị hại không được cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Bị cáo nhận thức được việc dùng dao sắc, nhọn đâm vào vùng trọng yếu có khả năng dẫn đến chết người nhưng vẫn bỏ mặc hậu quả xảy ra, cố ý mong muốn tước bỏ quyền sống của bị hại một cách trái pháp luật. Việc bị hại chỉ bị thương tích 59% mà không chết là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Do đó, hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, với tình tiết định khung là “Có tính chất côn đồ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt xảy ra trước đó, bị cáo đã chuẩn bị sẵn hung khí là dao Thái Lan rồi chủ động gây hấn, cự cãi với anh K và bị hại. Khi bị hại dùng tay đánh bị cáo một cái, bị cáo lập tức dùng dao Thái Lan đâm liên tiếp vào vùng bụng và lưng bị hại 03 nhát. Thể hiện bản chất côn đồ, xem thường tính mạng của người khác; việc bị hại không chết là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng nhưng bị hại không nhận; nguyên nhân sự việc có một phần lỗi của bị hại đánh bị cáo trước. Do đó, cần cho bị cáo hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[6] Từ những phân tích về tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng; xét lời đề nghị của người bào chữa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện bản chất côn đồ, xem thường tính mạng của người khác nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, xét bị cáo là người có nhân thân tốt, được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Mặt khác, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi và phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt nên cần áp dụng mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù theo quy định tại Điều 101 và khoản 3 Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo, áp dụng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị cáo là ông Trần Duy V tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 24.000.000 đồng và được bị hại đồng ý nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
[8] Về vật chứng: Vật chứng trong vụ án là công cụ liên quan đến hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; ông Trần Duy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần M phạm tội “Giết người”.
2. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101, khoản 3 Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Trần M 07 (bảy) năm tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 04 tháng 8 năm 2022.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điều 584, 585, 586 và 590 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Duy V, thay bị cáo Trần M bồi thường cho bị hại Lê Minh T số tiền là 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây kéo kim loại, dài 23 cm, cán có vỏ nhựa màu đen (vật chứng đã được chuyển giao cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng lập ngày 23 tháng 3 năm 2023).
5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; các điều 21, 23 và 26 của Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Trần M phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; ông Trần Duy V phải chịu 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
7. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 32/2023/HS-ST về tội giết người
Số hiệu: | 32/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về