TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Cao Minh T, sinh 1991, tại Hà Nội. Tên gọi khác: Không;
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khối 12, xã L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn S, sinh năm 1962; và bà Trần Thị T, sinh năm 1964; vợ: Đoàn Thị Phương A, sinh năm 1994, đã ly hôn, con: có 01 con sinh năm 2014; tiền án: Không; Tiền sự: không; Nhân thân: Tại bản án số 05/26.02.2013, TAND tỉnh Vĩnh Phúc xử 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Không tố giác tội phạm”. Bản án đã được xóa; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 06/01/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1981; Trú tại: Khối 9, xã L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội;
+ Cháu Bùi Phương T, sinh ngày 28/4/2003; Trú tại: Chùa T, phường T, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội;
+ Anh Nguyễn Danh N, sinh năm 1997; Trú tại: Thôn Đ, xã L, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang;
Vắng mặt anh H, anh N, cháu T;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h ngày 20/02/2019, Bùi Phương T, sinh ngày 28/4/2003 cùng Đồng Văn C; Nguyễn Danh N; Đào Huyền T, sinh 05/8/2002, trú tại thôn T, xã L, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn; Nguyễn Hồng S, sinh 1996, trú tại thôn Đ, xã N, huyện Sóc Sơn cùng Cao Minh T, sinh 1991, trú tại khối 12, xã L, huyện Sóc Sơn và người tên V (bạn gái T) đi ăn tối với nhau. Sau khi ăn xong, tất cả cùng về quán hát T do Cao Minh T phụ trách quản lý, trông coi, điều hành. Tại đây, T rủ tất các đối tượng vào hát và đặt vấn đề với T cho hát tại phòng 4, T đồng ý và bảo Hà Công L, sinh 1993, trú tại thôn C, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (nhân viên phục vụ của quán hát) chuẩn bị đĩa hoa quả mang vào phòng. Lúc này, Đồng Văn C bảo Nguyễn Văn H, sinh 19/5/2001, trú tại thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn (nhân viên phục vụ quán hát) lấy 01 Laptop đưa cho C. Trong phòng hát, T lấy ma túy ra sử dụng cùng S, N, C, T. Khi các đối tượng đang sử dụng ma túy thì Cao Minh T và V đi vào phòng hát. T, T thấy T vào phòng thì cầm ma túy “kẹo” mời T “chơi” nhưng T không chơi. T và V ngồi trong phòng hát khoảng 15 - 20 phút, chứng kiến việc các đối tượng sử dụng ma túy nhưng T không có lời nói hay hành động gì ngăn cản việc các đối tượng sử dụng ma túy tại phòng hát. Đến khoảng 23h cùng ngày, khi thấy số ma túy gần hết nên T bảo C lấy xe máy chở T về nhà nghỉ A, thuộc thôn N, xã Đ, huyện Sóc Sơn để lấy thêm ma túy. Sau đó, C mượn xe máy của N và chở T về nhà nghỉ lấy ma túy rồi quay lại quán hát thì bị Công an huyện Sóc Sơn kiểm tra, thu giữ tang vật gồm: 01 túi nilon bên trong có tinh thể màu trắng, T khai là ma túy Ketamine. Kiểm tra cốp xe máy phát hiện 01 túi nilon bên trong có 08 viên thuốc màu hồng. C khai không biết nguồn gốc 08 viên thuốc là của ai do xe máy C mượn của Nguyễn Danh N, sinh 1997, trú tại thôn Đ, xã L, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
Trên cơ sở lời khai của T, C, đến khoảng 01h ngày 21/02/2019, tổ công tác tiến hành kiểm tra phòng hát số 4 quán T, phát hiện có 03 đối tượng gồm: Nguyễn Hồng S, Lê Danh N, Đào Huyền T và tạm giữ 06 viên nén màu xám (trong đó 03 viên còn nguyên, 03 viên dùng dở); 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 đĩa sứ dính tinh thể màu trắng; 01 tờ tiền 10.000đ quấn dạng ống hút; 01 máy tính laptop.
Tại Kết luận giám định số 1223/01.3.2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng thu của T là Ketamine, khối lượng 0,514gam; 08 viên nén màu hồng thu dưới cốp xe máy có khối lượng 1,228gam, không tìm thấy chất ma túy; tinh thể màu trắng trong túi nilon thu tại quán T là ma túy Ketamine, khối lượng 0,839gam; 03 viên nén và 03 mảnh viên nén thu tại quán T là ma túy MDMA, khối lượng 1,490gam; tinh thể màu trắng dính trên đĩa sứ là Ketamine.
Quá trình điều tra, Cao Minh T bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 01/11/20219, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn ra Quyết định truy nã đối với Cao Minh T. Ngày 06/01/2021, T đến Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đầu thú.
Bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Cao Minh T về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c, đ khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; lời khai của bị cáo thể hiện, bị cáo biết việc T cùng nhóm bạn sử dụng trái phép ma túy tại phòng hát số 4 quán T (nơi bị cáo đang phụ trách quản lý, điều hành) nhưng do quen biết nên nên bị cáo không ngăn cản việc làm vi phạm của T. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
- Xử phạt Cao Minh T mức án từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: 06/01/2021;
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Phương T; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Nguyễn Hồng S; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Đồng Văn C, 01 đĩa sứ; Trả lại Bùi Phương T 01 điện thoại Iphone 8 plus và 01 điện thoại Iphone 6 plus; Trả lại anh Nguyễn Mạnh H 01 máy tính Laptop. Tịch thu sung quỹ số tiền 10.000đ.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụ n g tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.
[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:Khoảng 20 giờ, ngày 20/02/2019, tại quán Karaoke T thuộc địa phận Khối 14, xã L, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, Cao Minh T có hành vi cho Bùi Phương T, Đào Huyền T, Đồng Văn C, Nguyễn Danh N, Nguyễn Hồng S dùng quán hát do T quản lý để sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi cho 05 đối tượng mượn địa điểm của mình để sử dụng trái phép chất ma túy, tại thời điểm sử dụng ma túy Bùi Thị Phương T dưới 16 tuổi do đó hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” với hai tình tiết định khung là từ hai người trở lên và đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Cao Minh T về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất của vụ án: Vụ án có tình chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy; hành vi của bị cáo đã giúp sức cho tệ nạn ma túy phát triển, tệ nạn ma túy không những làm suy kiệt đến kinh tế của mỗi gia đình mà còn là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, do đó cần thiết phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm minh đối với bị cáo.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình điều tra bị cáo đã ra đầu thú đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, bản thân bị cáo từng bị đưa ra xét xử về tội “không tố giác tội phạm” nhưng vẫn không tu dưỡng đạo đức, không có ý thức chấp hành pháp luật nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định có như vậy mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Đối với chủ quán hát T: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xác định bà Nguyễn Thị L, sinh 1967, trú tại Khối 14, xã L, huyện Sóc Sơn là chủ đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, ngày 01/3/2018, bà L đã ủy quyền cho anh Nguyễn Mạnh H, sinh 1981, trú tại Khối 9, xã L, huyện Sóc Sơn kinh doanh. Sau khi nhận ủy quyền, anh H đã giao cho Cao Minh T phụ trách quản lý, trông coi quán và điều hành quán hát. Việc các đối tượng sử dụng trái phép ma túy tại quán thì anh H không biết. Tuy nhiên, do quán hát có hành vi vi phạm trong việc không xuất trình Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự và không tổ chức thực hiện văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về phòng cháy chữa cháy nên Công an huyện Sóc Sơn đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền là phù hợp.
Đối với nguồn gốc số ma túy Ketamine, MDMA thu giữ: Quá trình điều tra xác định là của Bùi Phương T. T khai nguồn gốc ma túy là T mua của Cao Minh T. Tuy nhiên, T không thừa nhận bán ma túy cho T. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa T và T nhưng không làm rõ được. Ngoài lời khai của T thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh T bán ma túy cho T nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn không đủ cơ sở để xử lý T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy là phù hợp.
Đối với Bùi Phương T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (gồm 1,353 gam Ketamine và 1,490 gam MDMA) nhưng do tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì T chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.
Đối với hành vi cung cấp ma túy cho các đối tượng sử dụng trái phép của Bùi Phương T: Do T chưa đủ 16 tuổi nên không thuộc trường hợp xem xét xử lý về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 255 Bộ luật hình sự.
Đối với 08 viên nén thu dưới cốp xe máy có khối lượng 1,228 gam: Kết luận giám định xác định không phải là ma túy nên không có dấu hiệu tội phạm.
Đối với Đồng Văn C: Quá trình điều tra xác định, C biết rõ Bùi Phương T đi lấy ma túy nhưng C vẫn đồng ý sử dụng phương tiện để chở T đi lấy ma túy. Tuy nhiên, do khối lượng ma túy Ketamine dưới mức truy cứu TNHS, bản thân Chính chưa có TATS nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Đối với Đào Huyền T, Nguyễn Danh N có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền theo quy định là đúng pháp luật.
Đối với chiếc xe máy BKS 88S9 - 4585: Quá trình điều tra, Nguyễn Danh N khai mua tại một cửa hàng mua bán xe cũ trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội với giá 8.000.000đ, hiện toàn bộ giấy tờ xe N đã đánh mất. Tra cứu thông tin phương tiện xác định chủ sở hữu chiếc xe là chị Trần Thị Thanh H, sinh 1984, trú tại thôn T, xã T, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2016, chị bị kẻ gian trộm cắp chiếc xe tại khu vực phường C, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn đã bàn giao tang vật và tài liệu liên quan cho Cơ quan CSĐT - Công an TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ để giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp.
[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra xác minh: bị cáo có mức thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Phương T; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Nguyễn Hồng S; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Đồng Văn C là những chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 đĩa sứ là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, giá trị sử dụng thấp nên cần tịch thu tiêu hủy, đối với 01 điện thoại Iphone 8 plus của Bùi Phương T; 01 điện thoại Iphone 6 plus của Bùi Phương T, 01 máy tính Laptop không liên quan đến sự việc phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu; đối với số tiền 10.000đ là phương tiện sử dụng có liên quan đến phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về hình phạt: Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Cao Minh T phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”:
Xử phạt: Cao Minh T: 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: 06/01/2021.
2.Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Phương T; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Nguyễn Hồng S; 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Đồng Văn C, 01 đĩa sứ; Trả lại Bùi Phương T 01 điện thoại Iphone 8 plus và 01 điện thoại Iphone 6 plus; Trả lại anh Nguyễn Mạnh H 01 máy tính Laptop. Tịch thu sung quỹ số tiền 10.000đ. Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
3.Về án phí: Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 22 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, được quyền kháng cáo. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.
Bản án 32/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 32/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về