Bản án 32/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN – TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Mã Văn H; sinh ngày 09 tháng 7 năm 1998 tại Hồng Tr, Bảo Lạc, Cao Bằng; Nơi cư trú: Xóm Nà Đ, xã Hồng Tr, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mã Văn Thàn và bà Lục Thị Dung; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2021 cho đến nay.

- Bị hại: Ông Trịnh Hồng Th; sinh năm: 1972;

Địa chỉ: Xóm Khau G, thị trấn Nước H, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn Ph; sinh năm: 1989;

Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Bảo L, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.

2. Bà Hoàng Thị M, sinh năm: 1977;

Địa chỉ: Xóm Khau G, thị trấn Nước H, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Có mặt bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà M, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ph có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 20/6/2021, Mã Văn H đến nhà anh Trịnh Hồng Th ở Khau G, thị trấn Nước H, huyện Hòa An để xin việc làm lái máy xúc và được anh Th đồng ý, mức lương thỏa thuận là 8.000.000đ/tháng. Quá trình làm việc, thấy anh Th giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22 giao cho anh em công nhân làm phương tiện đi làm, để ý thấy anh Th có để giấy đăng ký xe trong cốp dưới yên xe, nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt để bán lấy tiền chi tiêu cho cá nhân. Để thực hiện ý định, tối ngày 30/6/2021, H đến gặp anh Th nói dối là nhà sẽ tổ chức cất tang cho bà và “Hai hôm nữa chú cho cháu xin nghỉ 02 ngày để về nhà cất tang bà” rồi hỏi mượn chiếc xe máy đi về nhà nhưng anh Th chưa đồng ý và nói “Đến hôm đó xem thế nào đã”. Đến khoảng hơn 6 giờ sáng ngày 02/7/2021, anh Th hỏi H “Hôm nay có về nhà không”, H trả lời “Có ạ” và được anh Th cho tạm ứng 1.500.000đ tiền công đồng thời cho lấy xe mô tô Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22 để đi về. Mượn được xe, ứng được tiền, H điều khiển xe về chơi ở thị trấn Bảo L đến chiều tối ngày 03/7/2021 thì đi về nhà ở xóm Nà Đ, xã Hồng Tr huyện Bảo Lạc. Đến khoảng 9 giờ ngày 04/7/2021, sau khi tiêu hết số tiền ứng trước, H mang chiếc xe mượn của anh Th cùng với đăng ký xe, Giấy chứng minh nhân dân của mình đến cửa hàng mua bán xe máy Thiên Phú ở Khu 6, thị trấn Bảo L, huyện Bảo Lạc cầm cố được 6.000.000đ để mua ma túy về sử dụng và chi tiêu cho cá nhân. Ngày 09/7/2021, H quay lại cửa hàng Thiên Phú bán luôn chiếc xe cho cửa hàng được thêm 600.000đ, sau đó lấy lại giấy chứng minh thư nhân dân của mình rồi bỏ đi khỏi địa phương mà không thông tin gì đến anh Th, cho đến chiều ngày 16/7/2021, khi H quay lại thị trấn Bảo L thì bị Công an huyện Hòa An triệu tập và bắt giữ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An đã thu giữ được chiếc xe mô tô 11H1 – 028.22 đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 27/Kl-ĐGTS, ngày 17/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hòa An kết luận: "01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, đen, bạc, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22 đã qua sử dụng có giá trị còn lại là: 9.500.000 đồng (Bằng chữ: Chín triệu năm trăm nghìn đồng chẵn)".

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSHA ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Mã Văn H phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Mã Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo đúng như trong hồ sơ thể hiện và nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Cao Bằng đã truy tố.

- Bị hại Th và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị M xác nhận đã nhận lại tài sản xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, đen, bạc, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22 và không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Ph có đơn xin xét xử vặng mặt, trong đơn xác nhận: Vào buổi chiều ngày 04/7/2021 cửa hàng có được mua 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, đen, bạc, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22, số khung 400669, số máy 3200726 với giá là 6.000.000đ với một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ, sau đó nam thanh niên có đòi thêm 600.000đ, khi mua bán do xe có đầy đủ giấy tờ chính chủ xe và có chứng minh thư nhân dân nên tôi không biết được đó là xe do lừa đảo mà có. Nay đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải bồi thường cho tôi số tiền tôi đã mua xe là 6.600.000đ. Bị cáo nhất trí bồi thường theo yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phú.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Mã Văn H từ 09 – 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX công nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản của bị cáo H với yêu cầu trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Ph với số tiền là 6.600.000đ Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An đã trả lại xe cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Mai là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên không đề nghị HĐXX xem xét.

Về án phí: Căn cứ Điều 135 Của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh và hình phạt. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị cáo đã thực hiện, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua đó đã chứng minh được: Mã Văn H là người nghiện ma túy, muốn có tiền tiêu sài nên ngày 02/7/2021, H đã nói dối là phải về nhà để cất tang bà để hỏi mượn anh Trịnh Hồng Th ở Khau G, thị trấn Nước H, Hòa An chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, đen, bạc, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22. Sau khi mượn được xe, H đi về nhà ở Hồng Trị, Bảo Lạc, rồi mang ra bán lại cho cửa hàng xe máy Thiên Phú ở thị trấn Bảo L được 6.600.000đ mang đi mua bán ma túy và chi tiêu hết cho cá nhân. Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 27/Kl-ĐGTS, ngày 17/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hòa An kết luận: "01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, đen, bạc, Biển kiểm soát: 11H1 – 028.22 đã qua sử dụng có giá trị còn lại là: 9.500.000 đồng (Bằng chữ: Chín triệu năm trăm nghìn đồng chẵn). Hành vi của bị cáo H đã cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự quy định “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc mt trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Như vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là phạm pháp, nhưng vì bản thân nghiện Heroine, để có tiền sử dụng ma túy bị cáo bất chấp pháp luật, thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, với giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 9.500.000 đồng (Bằng chữ: Chín triệu năm trăm nghìn đồng chẵn). Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo đều thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Mã Văn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng bản thân mắc nghiện Heroine, để có tiền sử dụng ma túy bị cáo đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, để bị cáo có cơ hội sửa chữa, cải tạo bản thân trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội sau này. Từ đó, nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Tuy nhiên khi lượng hình, HĐXX sẽ cân nhắc xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i, s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công ăn việc làm, không có thu nhập, chưa có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên Tòa bị cáo nhất trí bồi thường theo yêu cầu trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Ph, toàn bộ số tiền thiệt hại là 6.600.000đ. Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, người có quyền lợi liên quan ông Phú có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo chưa thi hành được khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tướng ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án. Nội dung nhất trí bồi thường theo yêu cầu giữa bị cáo và người có quyền lợi liên quan là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được công nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An đã căn cứ vào đơn xin lại tài sản của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Mai trả lại xe cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

[9] Đối với ông Nguyễn Văn Ph là người mua tài sản do lừa đảo mà có, tại thời điểm mua bán ông Phú không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An không xử phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; Điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Mã Văn H.

Tuyên bố: Bị cáo Mã Văn H phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Xử phạt: Bị cáo Mã Văn H 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 16/7/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự Thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản giữa bị cáo H với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Ph với số tiền là 6.600.000đ. Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, người có quyền lợi liên quan ông Phú có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo chưa thi hành được khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tướng ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc bị cáo Mã Văn H phải chịu nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, và 330.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch để sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 17/9/2021. người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:32/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;