Bản án 32/2021/HSST ngày 16/04/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 32/2021/HSST NGÀY 16/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2021/HSST ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Hà Văn T, sinh ngày 1997, nơi ĐKHKTT và cư trú: Xóm C, xã Th, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Mường; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Hà Văn T1 và bà Hà Thị D; Vợ: Hà Thị H; Con: Có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/10/2020, tạm giam từ ngày 09/11/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01- Công an Thành phố Hà Nội. Danh chỉ bản số 260 ngày 02/11/2020 do Công an huyện Thạch Thất lập. Số giam: 630-A2B19. Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Mạnh C- sinh năm 2000. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn T2- sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Cà Văn Ch- sinh năm 1993.

Địa chỉ: Bản C, xã Q, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Bạc Thế C1- sinh năm 2000.

Địa chỉ: Bản Ch, xã Ch, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Lường Văn Th- sinh năm 2002.

Địa chỉ: Bản X, xã B, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Cà Văn S- sinh năm 2000.

Địa chỉ: Bản T, xã Ch, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Từ Văn Đ- sinh năm 2000.

Địa chỉ: Thôn L, xã Ng, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội.

+ Chị Nguyễn Thị Ánh T3- sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

+ Anh Lò Văn Ph- sinh năm 2001 Địa chỉ: Bản T, xã Ch, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 3 giờ 00 ngày 29/10/2020, anh Nguyễn Mạnh C- sinh năm 2000, trú tại: thôn C, xã B, huyện Thạch Thất, Hà Nội cùng với: Cà Văn Ch- sinh năm 1993, trú tại: Bản C, xã Q, huyện Tuần Giáo, Điện Biên; Cà Văn S- sinh năm 2000, trú tại: Bản T, xã Ch, huyện Tuần Giáo, Điện Biên; Bạc Thế C1 - sinh năm 2000, trú tại: Bản C, xã Ch, huyện Tuần Giáo, Điện Biên; Lường Văn Th- sinh năm 2002, trú tại: Bản X, xã B, huyện Mường Ảng, Điện Biên; Lò Văn Ph- sinh năm 1996, trú tại: Bản T, xã M, huyện Mường Ảng, Điện Biên, ngồi ăn đêm tại quán “Tuấn Ốc” ở thôn 1, xã Thạch Hoà, huyện Thạch Thất, Hà Nội do anh Nguyễn Văn T2- sinh năm 1991, trú tại: thôn B, xã T, huyện Thạch Thất làm chủ quán. Khoảng 30 phút sau, bị cáo Hà Văn T đến quán “Tuấn Ốc” ngồi uống rượu cùng Từ Văn Đ- sinh năm 2000, trú tại: thôn L, xã Ng, huyện Quốc Oai, Hà Nội và ngồi cách bàn của anh C khoảng 03 mét. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, anh C uống rượu say rồi vào trong bếp gặp vợ chồng anh T2 để thanh toán tiền. Quá trình thanh toán tiền thì anh C nói to tiếng nên anh T2 đẩy anh C ra ngoài khu vực bàn ăn rồi nói với những người ngồi cùng bàn ăn với anh C: “Nó say rồi, bạn của ai thì đưa nó về đi”. Lúc này, T đi đến chỗ C nói: “Quán người ta làm ăn, định làm loạn ở đây à”, C nói lại: “Mày biết tao là ai không, mày tin tao dẹp bỏ cái quán này không”. Sau đó C và T tiếp tục chửi nhau thì T lấy 01 ghế nhựa định đánh C nhưng Ch giật lại ghế nhựa và can ngăn T. Lúc này, bị cáo T đi vào bếp của quán “Tuấn Ốc” lấy 01 (một) con dao, loại dao chặt, dài 37cm, phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông ra đứng ở bàn của T ngồi trước đó rồi tiếp tục chửi nhau với C thì mọi người can ngăn. Lúc này, C đang chỉ tay về phía T thì T cầm dao tiến lại phía C hai bên đối diện cách nhau khoảng một mét. T dùng tay phải cầm dao chém liên tiếp 03 phát trúng C. Phát thứ nhất T vung dao chém theo hướng từ trên xuống dưới về phía đầu anh C, anh C dơ tay phải lên ngang trán để đỡ thì bị T chém trúng lòng bàn tay phải của C (Do khi dơ tay lên đỡ anh C mở bàn tay hướng về phía trước). Phát thứ hai T cũng vung dao lên chém theo hướng từ trên xuống dưới thì anh C né người nên bị T chém trúng bụng trái của C. Lúc này anh C thấy bàn tay phải bị thương nặng nên dùng tay trái cầm vào đỡ bàn tay phải thì thấy T vung dao chém phát thứ ba, anh C quay người định bỏ chạy thì bị T chém trúng khuỷu tay trái của C. Thấy vậy, anh T2 lao vào ôm T, giật bỏ dao và đẩy T về quán hát karaoke “LyNa” cách quán ăn khoảng 400m. Anh C được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108.

Hậu quả: anh C bị thương tích, gồm:

- 01 (một) vết thương sắc gọn ngang giữa bàn tay phải, chéo vát từ vùng IV lên vùng III bàn tay, đứt toàn bộ gân gấp nông, sâu các ngón I, II, III, IV, V; đứt thần kinh giữa, đứt bó mạch thần kinh trụ, gãy hở khớp thang – bàn ngón I, gãy hở xương bàn IV, V, đứt gân duỗi ngắn, duỗi dài ngón I, đứt gân dạng dài ngón I, đứt gân duỗi ngón IV, V.

- 01 (một) vết thương mặt sau ngoài cánh tay trái dài khoảng 05 cm vết thương nông đứt da và các tổ chức dưới da.

- 01 (một) vết thương thành bụng, nông, đứt da, dài khoảng 8 cm.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 7719/C09 – TT1 ngày 09/11/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành theo Thông tư số 22/2019/TT – BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ y tế xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Mạnh C tại thời điểm giám định tối thiểu là 11% (Mười một phần trăm). Các tổn thương trên người anh C là do vật sắc gây ra.

Tại Bản kết luận giám định pháp y bổ sung thương tích số 1770/C09 – TT1 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an ngày 19/3/2020 kết luận:

Đối chiếu với Bảng 1- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành theo Thông tư số 22/2019/TT – BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Mạnh C với các tổn thương sau:

- Sẹo vết thương vùng bụng trái kích thước lớn: 03%;

- Sẹo vết thương mặt sau- ngoài ½ dưới cánh tay trái kích thước trung bình: 02%;

- Sẹo vết thương vùng gần ngang giữa bàn tay phải kích thước trung bình: 02%;

- Sẹo phẫu thuật vùng cẳng tay- cổ tay- lòng bàn tay phải kích thước lớn: 03%;

- Gãy xương bàn IV, V tay phải, đang can liền; gây biến dạng bàn tay, ảnh hưởng đến chức năng bàn tay, ngón tay: 11%;

- Sai hở khớp thang- bàn ngón 1, đứt gân duỗi và dạng ngón 1 đã khâu nối, ảnh hưởng ít đến động tác khớp cổ tay: 05%;

- Đứt thần kinh giữa đã nối, tổn thương nhánh thần kinh giữa đoạn qua vết thương bàn tay: 11%;

- Đứt thần kinh trụ đã nối, tổn thương nhánh thần kinh trụ đoạn qua vết thương bàn tay: 11%.

Áp dụng phương pháp xác định lỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Mạnh C sau 02 lần giám định là 39 % (Ba mươi chín phần trăm).

Cơ chế hình thành thương tích: Các tổn thương trên cơ thể anh Nguyễn Mạnh C do vật sắc gây ra. Phần lưỡi của con dao gửi giám định gây ra được các thương tích trên cơ thể anh Nguyễn Mạnh C.

Vật chứng thu giữ:

- 01(một) con dao chặt có tổng chiều dài 37 cm, phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông, đã qua sử dụng.

- 01 (một) áo vải màu đen có chữ “adidas” màu trắng trên ngực áo trái, phần tay phải của áo bị cắt cụt, cách phân vai trái của áo 20cm trên cánh tay trái có 01 vết rách dài 8cm, chân vết rách có 01 vết rách dài 3,5cm, cách phần vạt áo trái 7cm có 01 vết rách dài 16cm.

- 01 ống kim loại, hình trụ tròn dài 23,8 cm, đường kính 07 cm, trên hình trụ có 02 thanh ốc vít, mỗi thanh dài 08 cm, trên hai thanh ốc vít được gắn với 01 thanh sắt hình chữ nhật, kích thước 12x3 cm, dày 0,4 cm sử dụng để tuốt mía không gây ra được thương tích cho anh Nguyễn Mạnh Cường, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Tuấn.

Về vấn đề dân sự:

Bị hại Nguyễn Mạnh C yêu cầu Hà Văn T phải bồi thường số tiền như sau:

- Tiền viện phí trong quán trình khám tại bệnh viện 108 và bệnh viện Đại học Y là 60.500.000 đồng (Sáu mươi triệu năm trăm nghìn đồng).

- Tiền 05 (năm) tháng anh C nghỉ không lao động được là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

- Tiền chi phí chăm sóc anh C khi ở bệnh viện và tiền tổn hại sức khoẻ của anh C là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

Tổng số tiền phải bồi thường là 310.500.000 đồng (Ba trăm mười triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa, anh C yêu cầu bổ sung: Do bàn tay của anh C không co duỗi được, ảnh hưởng đến lao động nên đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại do giảm sút sức lao động mỗi ngày là 250.000đồng, trong thời gian 50 năm.

Tại phiên tòa bị cáo Hà Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bản cáo trạng số 31/CT- VKS ngày 26/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “ Cố ý gây thương tích” theo Điểm c Khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm d Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Hà Văn T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Về dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho anh C theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng: Trả lại anh Nguyễn Văn T2 01(một) con dao chặt có tổng chiều dài 37 cm, phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông, đã qua sử dụng.

Tiêu hủy 01 (một) áo vải màu đen có chữ “adidas” màu trắng đã thu giữ của anh C do anh C không nhận lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Hồ sơ bệnh án, các Bản kết luận giám định thương tích, lời khai người bị hại, lời khai của những người làm chứng. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 3 giờ 00 ngày 29/10/2020, anh Nguyễn Mạnh C cùng một số bạn bè ngồi ăn đêm tại quán “Tuấn Ốc” ở thôn 1, xã Thạch Ho, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Khoảng 30 phút sau, bị cáo Hà Văn T đến quán “Tuấn Ốc” ngồi uống rượu với nhóm bạn của T và ngồi cách bàn của anh C khoảng 03 mét. Khoảng 5 giờ sáng cùng ngày C vào gặp vợ chồng chủ quan để thanh toán, do say rượu nên C có nói to tiếng và bị anh T2 chủ quán đẩy ra ngoài. Sau đó giữa C và T có nói lời qua tiếng lại và xảy ra mẫu thuẫn. Bị cáo T đi vào bếp của quán lấy 01 con dao, loại dao chặt dài 37 cm (Phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông) và tay phải cầm dao chém liên tiếp 03 phát trúng người anh C. Sau đó được mọi người can ngăn, anh C được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hậu quả: Anh C bị thương tích 39%.

Hành vi của Hà Văn T dùng dao là hung khí nguy hiểm chém vào tay và bụng anh Nguyễn Mạnh C gây thương tích 39% đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất truy tố bị cáo T về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ.

[3]. Về hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo Hà Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của anh C, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn huyện Thạch Thất. Chỉ từ mâu thuẫn nhỏ nhặt thông qua lời nói của anh C trong lúc say rượu nhưng bị cáo T đã tỏ thái độ hung hãn đi lấy dao ra chém anh C gây thương tích, nên phải có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo thành người tốt.

Về tình tiết tăng nặng: Giữa bị cáo T và anh C là hai người không quen biết nhau, không có mâu thuẫn từ trước. Ngày 29/10/2020, tình cờ gặp nhau tại quán “Tuấn Ốc”, trong quá trình anh C thanh toán tiền ăn của nhóm anh C, do say rượu anh C nói to tiếng và bị chủ quán đẩy ra ngoài thì bị cáo T nói xen vào dẫn đến hai bên lời qua tiếng lại (T đi đến chỗ C nói: “Quán người ta làm ăn, định làm loạn ở đây à”, C nói lại: “Mày biết tao là ai không, mày tin tao dẹp bỏ cái quán này không”). Từ những lời nói mâu thuẫn nhỏ nhặt trong tình trạng anh C đã uống rượu say như vậy, nhưng T đã lấy 01 ghế nhựa định đánh C thì mọi người can ngăn. Sau đó T tiếp tục đi vào trong quán lấy một con dao chặt ra chém liên tiếp 03 phát trúng người anh C gây thương tích. H vi trên của bị cáo T thuộc trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ, nên bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm d Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm hình phạt cho bị cáo theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[ 4]. Về dân sự: Anh Nguyễn Mạnh C yêu cầu bị cáo Tân bồi thường số tiền 310.500.000 đồng. Xét yêu cầu của anh C, thấy các khoản sau đây có căn cứ và phù hợp pháp luật được chấp nhận, gồm:

- Tiền viện phí trong quá trình khám và điều trị thương tích tại bệnh viện 108 và bệnh viện Đại học Y theo hóa đơn = 60.500.000 đồng.

- Tiền mất thu nhập của anh C trong thời gian 05 tháng, theo mức thu nhập bình quân lao động phổ thông tại địa phương xã Bình Phú là 8.000.000đồng/tháng (05 tháng x 8.000.000đồng/tháng) = 40.000.000 đồng.

- Tiền công mất thu nhập của một người trông nuôi, chăm sóc anh C trong thời gian nằm viện, những ngày sau khi mới ra viện, các đợt đưa đi viện khám lại, cộng gộp lại là một tháng = 8.000.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe của anh C trong thời gian 60 ngày, mỗi ngày 100.000 đồng = 6.000.000 đồng.

- Tiền thuê xe ô tô đưa anh C đi viện điều trị, ra viện, đi viện khám lại = 5.000.000 đồng.

- Tiền bù đắp tổn thất tinh thần bằng 50 lần mức lương cơ sở (Mức lương cơ sở là 1.490.000đồng) = 74.500.000 đồng.

Tổng cộng: 194.000.000 đồng, buộc bị cáo T phải bồi thường cho anh C số tiền này.

Tại phiên tòa anh C yêu cầu bị cáo bồi thường tiền do giảm sút sức lao đồng trong thời gian 50 năm. Yêu cầu này của anh C không phù hợp pháp luật nên không được chấp nhận. Trường hợp sau này anh C phải tiếp tục điều trị liên quan đến thương tích như phẫu thuật chỉnh hình…v.v. thì anh C có quyền khởi yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường bằng một vụ kiện dân sự khác.

[5]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01(một) con dao chặt có tổng chiều dài 37 cm, phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông, đã qua sử dụng. Đây là dao của anh T2 chủ quán ‘Tuấn ốc” do bị cáo T tự ý lấy để thực hiện hành vi phạm tội, nên trả lại con dao này cho anh T2.

Đối với 01 (một) áo vải màu đen có chữ “adidas” màu trắng trên ngực áo trái, phần tay phải của áo bị cắt cụt, cách phần vai trái của áo 20cm trên cánh tay trái có 01 vết rách dài 8cm, chân vết rách có 01 vết rách dài 3,5cm, cách phần vạt áo trái 7cm có 01 vết rách dài 16cm. Đây là chiếc áo của anh C nhưng do áo đã rách không còn giá trị sử dụng, anh C không nhận lại nên được tiêu hủy.

Đối với ống kim loại cạo vỏ mía, là tài sản của anh T2 chủ quán “Tuấn ốc” không liên quan đến vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T2 là đúng pháp luật.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm d Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn T 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Trả lại anh Nguyễn Văn T2 01(một) con dao chặt có tổng chiều dài 37 cm, phần chuôi dao dài 13cm bằng gỗ, phần lưỡi dao dài 24cm bằng thép, bản của lưỡi dao phần rộng nhất là 09cm, mũi vuông, đã qua sử dụng.

Tiêu hủy 01 (một) áo vải màu đen có chữ “adidas” màu trắng trên ngực áo trái, phần tay phải của áo bị cắt cụt, cách phần vai trái của áo 20cm trên cánh tay trái có 01 vết rách dài 8cm, chân vết rách có 01 vết rách dài 3,5cm, cách phần vạt áo trái 7cm có 01 vết rách dài 16cm.

Các vật chứng trên theo Biên bản giao nhận tài sản, tang vật số 38/THA/2021 ngày 15/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất.

Về dân sự: Căn cứ các điều 584, 585, 590 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Hà Văn T phải bồi thường cho anh Nguyễn Mạnh C số tiền 194.000.000đ (Một trăm chín mươi tư triệu đồng).

Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Hà Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 9.700.000đ (Chín triệu bảy trăm nghìn đồng) án phí dân sự.

Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HSST ngày 16/04/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:32/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;