Bản án 32/2021/HSST ngày 08/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 32/2021/HSST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TL ST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trọng L - sinh ngày 12/11/1989. tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng Thiệu và bà Nguyễn Thị Kít; vợ,con: chưa; tiền sự: Không;

Tiền án:- Năm 2011 bị TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 33 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản;

- Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp với 33 tháng tù tại bản án số: 97/2011/HSPT ngày 16/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt là: 42 tháng tù.

- Năm 2013 bị TAND huyện Hoằng Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của bản án số 62/2012/HSST ngày 30/10/2012 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa là: 42 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của hai bản án là 66 tháng tù ( được trừ 02 tháng 29 ngày tạm giữ tạm giam của bản án số: 97/2011/HSPT ngày 16/6/2011).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2021 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Văn V - sinh ngày 15/02/1988 tại: Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn C, xã Cầu L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Dũng và bà Lê Thị Qúy; vợ: Nguyễn Thị Linh; con: chưa; tiền án; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay. Có mặt.

3. Người bị hại: - Anh Đỗ Xuân Thủy, sinh năm 1969. Vắng mặt Địa chỉ: Thôn Đạt Tài, xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Bùi Trung Hiếu, sinh năm 1997. Vắng mặt Địa chỉ: Tổ 3 ấp 2, xã Tà lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

4. Người làm chứng: - Anh Cao Cường Mè, sinh năm 1991. Vắng mặt Địa chỉ: xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

-Anh Lê Thanh Tùng, sinh năm 1976. Vắng mặt Địa chỉ: xã Đồng Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

-Bà Nguyễn Thị Kít, sinh năm 1944. Vắng mặt Địa chỉ: Thôn Cầu Thôn, xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

- Ông Nguyễn Văn Dũng, sinh năm 1958. Vắng mặt Địa chỉ: thôn Cầu Tài, xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

- Chị Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1978. Vắng mặt Địa chỉ: thôn Cầu Thôn, xã Cầu Tài, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Lê Anh Tuấn. Vắng mặt Địa chỉ: xã Hà Bình, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: khoảng 10 giờ ngày 07/5/2019 Nguyễn Trọng L mang theo vam phá khóa rủ Phạm Thanh Minh ở Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đi trộm cắp tài sản, Minh đồng ý. L điều khiển xe mô tô SIRIUS biển số 69 F1 – 272.36 chở Minh từ thành phố Biên Hòa đến thị trấn Vĩnh An, Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Khi đến khu vực khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, Vĩnh Cửu, L và Minh phát hiện một số xe máy đang dựng phía trong vườn tràm không có người trông coi. Minh đứng phía ngoài đường cảnh giới còn L đi đến nơi dựng xe, dùng vam bẻ khóa xe mô tô EXCITER, biển số 60B3- 492.01 của anh Bùi Trung Hiếu ở ấp 2, xã Lại Tài, Tân Phú, Đồng Nai nhưng không bẻ được khóa, L gọi Minh, cả 2 khiêng chiếc xe của anh Hiếu đặt lên yên xe máy SIRIUS, chở vào vườn cây cao su cách đó khoảng 3km để cất giấu. Sau đó, L điều khiển xe SIRIUS chở Minh đi về hướng Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Khi đi đến xã Thiện Tân, Vĩnh Cửu, Đồng Nai thì bị quần chúng nhân dân phát hiện bắt giữ, đưa về trụ sở Công an xã Thiện Tân. Trên đường đi về trụ sở Công an xã Thiện Tân, Nguyễn Trọng Lực đã bỏ trốn. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã khởi tố và ra Quyết định truy nã số 979 ngày 05/8/2019 đối với Nguyễn Trọng L .

Tại Kết luận định giá tài sản số 25/KL –ĐGTS ngày 15/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận: 01 xe mô tô hiệu Exciter biển số 60B3 – 492.01 trị giá 35.000.000đ ( Ba mươi lăm triệu đồng).

- Về vật chứng: Chiếc xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển số 60B3 – 492.01 Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho bị hại; bị hại không có yêu cầu gì khác.

Đối với hành vi phạm tội của Phạm Thanh Minh, ngày 17/10/2019 đã bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 (hai) năm tù về tội Trộm cắp tài sản.

Vụ thứ hai: Sau khi phạm tội tại huyện Vĩnh Cửu, Nguyễn Trọng L bỏ trốn về xã Cầu Lộc- Hậu Lộc. Tối ngày 06/5/2020 Nguyễn Trọng L gọi điện rủ Nguyễn Văn V đi trộm cắp tài sản, V đồng ý. Khoảng 07h00 ngày 07/5/2020 L mang theo vam phá khóa hình chữ L, điều khiển xe moto Exciter biển số 35B3 - 163.86 đến nhà chở V sang khu vực huyện Hoằng Hóa để trộm cắp. Khi đi đến khu vực thôn Đạt Tài 1, xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa, phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc, biển số 36B4 – 325.44 của anh Đỗ Xuân Thủy ở thôn Đạt Tài, xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa đang dựng trước cổng nhà. L chở V đi qua đi lại nhiều lần để quan sát không thấy người trông coi nên dừng xe gần vị trí xe mô tô của anh Thủy đứng cảnh giới và đưa vam phá khóa cho V phá khóa điện trộm cắp chiếc xe mô tô 36B4 - 325.44 điều khiển mang về nhà L cất dấu, trên đường về V vứt vam phá khóa xuống sông Bút. Về đến nhà L cả hai mở cốp xe thấy bên trong có đăng ký xe, L thỏa thuận với V để cho L sử dụng chiếc xe mô tô trộm cắp và hẹn trả cho V 1.500.000đ (Một triệu năm trăm triệu đồng) V đồng ý. Đến khoảng 18h cùng ngày L và V mang xe mô tô trộm cắp lên đường 1A gửi cho xe ô tô biển số 51B – 19026 do anh Cao Văn Cường Mè ở Xuân Phú – Yên Dũng – Bắc Giang điều khiển vào tỉnh Đồng Nai giá cước vận chuyển 700.000đ, khi L vào sẽ lấy xe và thanh toán cước cho nhà xe.

Phát hiện chiếc xe bị trộm cắp anh Đỗ Xuân Thủy đã báo cáo Ban công an xã Hoằng Hà và Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa thông báo truy tìm vật chứng và tiến hành điều tra, xác minh. Nhận được thông báo anh Lê Thanh Tùng chủ xe ô tô biển số 51B – 19026 đã giao nộp xe mô tô trộm cắp cho Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa.

Tại kết luận định giá tài sản số: 20/HĐĐG - HH ngày 12/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hoằng Hóa kết luận: xe máy Wave alpha màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4- 325.44, số khung RLHHC 121DY57104, số máy: HC 12E5572230 có giá trị = 8.000.000đ ( Tám triệu nghìn đồng). Sau khi định giá Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa đã trả lại cho bị hại theo quy định của pháp luật.

Sau khi phạm tội, Nguyễn Trọng L và Nguyễn Văn V bỏ trốn, Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa ra Quyết định truy nã số 06; 07 ngày 09/9/2020 đến ngày 17/12/2020 Nguyễn Văn V bị Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bắt khi đang lẩn trốn tại tỉnh Bình Dương; ngày 04/01/2021 Nguyễn Trọng L đến Công an Phường Trương Định – Quận Hoàng Mai – Thành phố Hà Nội đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; phù hợp với lời khai nhân chứng; bị hại và hình ảnh đã thu thập được.

- Về vật chứng: Chiếc xe mô tô Wave alpha màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4- 325.44 Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa trả lại cho bị hại; bị hại không có yêu cầu gì khác.

Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter biển số 35B3 – 163.86 L chở V đi trộm cắp, Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa đã chuyển cho Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa chờ xét xử.

Bản cáo trạng số 28/CTr - VKSHH ngày 05 tháng 05 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng L, Nguyễn Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với L; Khoản 1 Điều 173 của BLHS đối với V.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với các bị cáo: Nguyễn Trọng L điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, 2( Bị cáo ra đầu thú) Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trọng L từ 04 năm tù đến 05 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 04/01/2021 Bị cáo Nguyễn Văn V. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1 Điều 51 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 đến 10 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 17/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo L và bị cáo V.

*Về dân sự: Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đã trả lại tài sản cho bị hại chiếc xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển số 60B3 – 492.01; bị hại không có yêu cầu gì khác.

Chiếc xe mô tô Wave alpha màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4- 325.44 Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa trả lại cho bị hại ông Đỗ Xuân Thủy; bị hại không có yêu cầu gì khác.

*Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter là chiếc xe bị cáo L mua của một người không ró tên tuổi địa chỉ ở niềm nam và sau khi tra cứu chiếc xe là của anh Lê Tuấn Anh ở Đông Trung 3, xã Hà Bình, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Anh Tuấn Anh khai đã bán cho một người không rõ địa chỉ ở trong niềm nam, bị cáo L đã mua lại của một người trong nam, đây là phương tiện bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với biển số 35B3 – 163.86 tại kết quả tra cứu ngày 02/2/2021 của Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Thanh Hóa trả lời: Không tìm thấy dữ liệu tra cứu đối với biển số35B3 – 163.86. Đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo nhận thấy được lỗi lầm của mình xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 07/5/2019 Nguyễn Trọng L mang theo vam phá khóa rủ Phạm Thanh Minh ở Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đi trộm cắp tài sản, Minh đồng ý. L điều khiển xe mô tô SIRIUS biển số 69 F1 – 272.36 chở Minh từ thành phố Biên Hòa đến thị trấn Vĩnh An, Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Khi đến khu vực khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, Vĩnh Cửu, L và Minh phát hiện một số xe máy đang dựng phía trong vườn tràm không có người trông coi. Minh đứng phía ngoài đường cảnh giới còn L đi đến nơi dựng xe, dùng vam bẻ khóa xe mô tô EXCITER, biển số 60B3- 492.01 của anh Bùi Trung Hiếu ở ấp 2, xã Lại Tài, Tân Phú, Đồng Nai nhưng không bẻ được khóa, L gọi Minh, cả 2 khiêng chiếc xe của anh Hiếu đặt lên yên xe máy SIRIUS, chở vào vườn cây cao su cách đó khoảng 3km để cất giấu. Sau đó, L điều khiển xe SIRIUS chở Minh đi về hướng Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Khi đi đến xã Thiện Tân, Vĩnh Cửu, Đồng Nai thì bị quần chúng nhân dân phát hiện bắt giữ, đưa về trụ sở Công an xã Thiện Tân. Trên đường đi về trụ sở Công an xã Thiện Tân, Nguyễn Trọng Lực đã bỏ trốn. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã khởi tố và ra Quyết định truy nã số 979 ngày 05/8/2019 đối với Nguyễn Trọng Lực .

Tại Kết luận định giá tài sản số 25/KL –ĐGTS ngày 15/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận: 01 xe mô tô hiệu Exciter biển số 60B3 – 492.01 trị giá 35.000.000đ ( Ba mươi lăm triệu đồng).

Vụ thứ hai: Sau khi phạm tội tại huyện Vĩnh Cửu, Nguyễn Trọng L bỏ trốn về xã Cầu Lộc- Hậu Lộc. Tối ngày 06/5/2020 Nguyễn Trọng L gọi điện rủ Nguyễn Văn V đi trộm cắp tài sản, Vinh đồng ý. Khoảng 07h00 ngày 07/5/2020 L mang theo vam phá khóa hình chữ L, điều khiển xe moto Exciter biển số 35B3 - 163.86 đến nhà chở V sang khu vực huyện Hoằng Hóa để trộm cắp. Khi đi đến khu vực thôn Đạt Tài 1, xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa, phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc, biển số 36B4 – 325.44 của anh Đỗ Xuân Thủy ở thôn Đạt Tài, xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa đang dựng trước cổng nhà. L chở V đi qua đi lại nhiều lần để quan sát không thấy người trông coi nên dừng xe gần vị trí xe mô tô của anh Thủy đứng cảnh giới và đưa vam phá khóa cho V phá khóa điện trộm cắp chiếc xe mô tô 36B4 - 325.44 điều khiển mang về nhà L cất dấu, trên đường về V vứt vam phá khóa xuống sông Bút. Về đến nhà L cả hai mở cốp xe thấy bên trong có đăng ký xe, L thỏa thuận với Vinh để cho L sử dụng chiếc xe mô tô trộm cắp và hẹn trả cho V 1.500.000đ (Một triệu năm trăm triệu đồng) V đồng ý.

Tại kết luận định giá tài sản số: 20/HĐĐG - HH ngày 12/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hoằng Hóa kết luận: xe máy Wave alpha màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4- 325.44, số khung RLHHC 121DY57104, số máy: HC 12E5572230 có giá trị = 8.000.000đ ( Tám triệu nghìn đồng). Sau khi định giá Cơ quan điều tra Công an Hoằng Hóa đã trả lại cho bị hại theo quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Trọng L, Nguyễn Văn V thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 BLHS. Bị cáo L năm 2013 bị TAND huyện Hoằng Hóa xử phạt 66 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo chưa được xóa án tích vẫn tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn V bị truy tố theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và cáo trạng của VKSND huyện Hoằng Hóa truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được nhà nước bảo vệ, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, với động cơ tư lợi muốn hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác các bị cáo lợi dụng sơ hở trong việc quản ly tài sản để chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục các bị cáo, giáo dục chung cho xã hội và cần thiết cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo.

[4] Trong vụ án này các bị cáo phạm tội là thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn nhưng cần cá thể hóa hình phạt để phân hóa vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

Đối với bị cáo Nguyễn Trọng L cả hai vụ án bị cáo là người trực tiếp rủ bị Minh và V đi trộm cắp tài sản, tổng số tài sản giá trị chiếm đoạt đối với Lực là 43.000.000đ, đối với bị cáo Nguyễn Văn V giúp sức cùng L đi trộm cắp tài sản, tài sản V trộm cắp cùng L có giá trị là 8.000.000đ, nên vai trò của L cao hơn V.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trọng L phạm tội từ hai lần trở lên nên phải chịu tình tiết quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Bị cáo Nguyễn Văn V không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về thực hiện hành vi phạm tội; Trong quá trình điều tra bị cáo L đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo L được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo V phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra truy tố bị cáo thành khẩn khai báo ăn năm hối cải nên được hưởng tình tiết quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo thuộc trường hợp lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ dung đối với các bị cáo.

[8] Về dân sự: Tài sản đã trả cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì nên HĐXX Miễn xét.

[9]Về vật chứng: Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter là chiếc xe bị cáo L mua của một người không rõ tên tuổi địa chỉ ở miền nam và sau khi tra cứu chiếc xe là của anh Lê Tuấn Anh ở Đông Trung 3, xã Hà Bình, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Anh Tuấn Anh khai đã bán cho một người không rõ địa chỉ ở trong miền nam, bị cáo đã mua lại của một người trong miền nam, đây là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với biển số 35B3 – 163.86 tại kết quả tra cứu ngày 02/2/2021 của Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Thanh Hóa trả lời: Không tìm thấy dữ liệu tra cứu đối với biển số35B3 – 163.86. Đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng L, Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng L 04( bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38;

Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V: 06( sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2,3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, số khung RLCE55B10EY487941, số máy mờ, không nhìn rõ xe đã hỏng yếm, không gương kính, màu đen, không chìa khóa, không kiểm tra chất lượng bên trong là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu tiêu hủy đối với biển số 35B3 – 163.86.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng số: 41/BBGN ngày 07/6/2021tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1,3 Điều 21, điểm g khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HSST ngày 08/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;