Bản án 32/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 02 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lý Vũ L , sinh năm 1984, nơi sinh: tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp TH, xã BS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn Thẳng, sinh năm 1958 và bà Hà Diệu Hiền, sinh năm 1964; anh, em ruột có 02 người, bị cáo là người thứ nhất; bị cáo có vợ tên Trình Thị Tuyết Anh, sinh năm 1985, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2008.

Tiền án: không. Tiền sự: không.

Ngày 01/10/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xử phạt 02 tù, về tội “Vận chuyển hàng cấm”, đã chấp hành án phạt tù ngày 27/01/2016, chấp hành xong nghĩa vụ thi hành án.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Lương Văn C , sinh năm 1988, nơi sinh: Campuchia; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp PA, xã PN, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: chưa xác định; Tôn giáo: chưa xác định; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Quò (chết) và bà Nguyễn Thị K , sinh năm 1956; anh chị em ruột có 07 người, bị cáo là người thứ sáu.

Tiền án: không. Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Thị K , sinh năm 1956. Nơi cư trú: ấp PA, xã PN, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh.

+ Nguyễn Văn Q , sinh năm 1986. Nơi cư trú: Khóm MT, phường VM, thành phố CĐ, tỉnh An Giang.

+ Huỳnh Văn D , sinh năm 1984. Nơi cư trú: Ấp HP, xã ĐHC, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 15/12/2020, lực lượng Công an huyện Châu Phú phát hiện 01 vỏ tắc ráng Composite có biểu hiện nghi vấn đang di chuyển trên tuyến kênh ranh thuộc ấp Hưng Phát, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên tiến hành cho dừng phương tiện, kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lý Vũ L và Lương Minh C đang vận chuyển 9.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram).

Tang vật thu giữ: 9.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu (bao gồm 7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram); 01 vỏ tắc ráng Composite kích thước (9,7 x 1,14 x 0,55)m, gắn máy 4, động cơ xăng, không nhãn hiệu, số 423; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei : 353996323187601, Imei 2: 354281943187607, có sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915; 01 điện thoại di động hiệu Vivo 2019, màu xanh, Imei 1: 864300059916154, Imei 2: 864300059916147, có sim số 0868.699711 và sim số 0877.470746 (tất cả đã qua sử dụng).

Quá trình điều tra,Lý Vũ L và C khai nhận: Ngày 15/12/2020, Lý Vũ L và C nhận vận chuyển thuê 9.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram) cho một người thanh niên tên Trắng (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) đi từ khu vực rừng Tràm Trà Sư đến khu vực cầu số 9 thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Lý Vũ L được trả tiền công 500.000 đồng, C được trả tiền công 300.000 đồng, trên đường vận chuyển thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, Lý Vũ L và Lương Văn C còn khai nhận trước đó đã vận chuyển thuê thuốc lá cho chủ cũ (tên Trắng) trót lọt 05 lần, không biết số lượng cụ thể.

Lời khai của người làm chứng: Nguyễn Thị K , Nguyễn Văn Q , Huỳnh Văn D phù hợp với nội dung vụ án.

Tại Bản Cáo trạng số: 26/CT-VKSCP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú đã truy tố Lý Vũ L và Lương Văn C ra trước Tòa án nhân dân huyện Châu Phú để xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận có hành vi vận chuyển hàng cấm như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo ăn năn, hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm về với gia đình làm lại người tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Viện kiểm sát đề nghị: Giữ nguyên Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Vận chuyển hàng cấm” tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng Điều 17, Điều 38, s khoản 1 Điều 51 và điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Lý Vũ L mức án từ 06 năm đến 07 năm tù, bị cáo Lương Văn C mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về tang vật chứng, Cơ quan cảnh sát Điều tra huyện Châu Phú thu giữ được: 9.450 bao thuốc lá điếu nhận lậu (7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram) tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu phát mãi sung vào ngân sách Nhà nước: 01 vỏ tắc ráng Composite kích thước (9,7 x 1,14 x 0,55)m, gắn máy 4, động cơ xăng, không nhãn hiệu, số 423; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei : 353996323187601, Imei 2: 354281943187607, có sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915; 01 điện thoại di động hiệu Vivo 2019, màu xanh, Imei 1:

864300059916154, Imei 2: 864300059916147, có sim số 0868.699711 và sim số 0877.470746 (tất cả đã qua sử dụng) - Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lý Vũ L , Lương Văn C do điều kiện kinh tế của các bị cáo khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng theo đúng quy định. Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên những người này đã có lời khai tại Cơ quan điều tra nên sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa bị cáo Lý Vũ L thừa nhận ngày 15/12/2020 bị cáo đã nhận vận chuyển thuê thuốc lá điếu nhập lậu cho một người tên Trắng (không rõ họ tên, địa chỉ), bị cáo có rủ thêm Lương Văn C cùng vận chuyển thuê, số lượng 9.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram), vận chuyển bằng chiếc tắc ráng Composite, với tiền công tên Trắng trả cho Lý Vũ L là 500.000 đồng, tiền công trả cho C là 300.000 đồng, các bị cáo chưa nhận được tiền công thì trên đường vận chuyển bị bắt quả tang. Cụ thể, khoảng 13 giờ cùng ngày đến đoạn đường thuộc ấp Hưng Phát, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, các bị cáo bị Công an huyện Châu Phú kiểm tra và lập biên bản bắt quả tang về hành vi vận chuyển hàng cấm là toàn bộ số thuốc lá điếu nhập lậu. Trong vụ án này, bị cáo Lý Vũ L là người trực tiếp liên hệ với tên Trắng để thương lượng, thỏa thuận hình thức vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu, tiền công vận chuyển, là người trực tiếp điều khiển chiếc vỏ tắc ráng, bị cáo là người liên hệ rủ rê bị cáo C cùng thực hiện hành vi, bị cáo C ngồi trước mũi vỏ tắc ráng, canh giữ đường và quan sát.

Ngoài ra, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của các bị cáo và người làm chứng tại Cơ quan Điều tra; Biên bản phạm tội quả tang ngày 15/12/2020; tang vật chứng thu giữ được là 9.450 bao thuốc lá (7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram).

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lý Vũ L và Lương Văn C đã có hành vi vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 9.450 bao thuốc lá (7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram); tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo Lý Vũ L và Lương Văn C phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã gây ra.

Điều 191 quy định: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”.

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật Hình sự thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

.......;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a)....;

b) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 4.500 bao trở lên;

.......;

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Về nhân thân, tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[3.1] Về nhân thân:

Đối với bị cáo Lý Vũ L thuộc thành phần lao động nghèo, không có tiền án, tiền sự, nhưng bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 02 năm tù về tội vận chuyển hàng cấm, mặc dù đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo xem thường pháp luật, nhân thân xấu, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội vận chuyển hàng cấm.

Đối với bị cáo Lương Văn C thuộc thành phần lao động nghèo, không nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh rất khó khăn, bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật hạn chế, không có tiền án, tiền sự.

[3.2] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo: Tình trạng vận chuyển, buôn bán hàng ngoại nhập lậu trên các vùng biên giới và các địa phương lân cận đang diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp đã gây tác hại nghiêm trọng trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, an toàn xã hội, dư luận xã hội, đòi hỏi phải tích cực phát hiện ngăn chặn, xử lý kịp thời và nghiêm minh, bởi tác hại nhiều mặt của loại tội phạm này.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo Lý Vũ L và C cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ. Trong vụ án này các bị cáo thực hiện tội phạm với tính chất, mức độ phạm tội khác nhau nên cần phải phân hóa vai trò, mức độ phạm tội và kết hợp với nhân thân của các bị cáo để xử lý theo quy định.

Xét bị cáo Lý Vũ L là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, có đủ sức khỏe để lao động, làm ăn chân chính, bị cáo biết hành vi nhận vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, bị cáo đã từng bị phạt tù về hành vi này, lần vi phạm này bị cáo vẫn cố ý thực hiện vì muốn tiền để tiêu xài mà không phải mất nhiều công sức. Hành vi của bị cáo là bất chấp pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo C . Với vai trò là người chủ động, rủ rê C tham gia nên cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo Lý Vũ L mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét bị cáo Lương Văn C là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, có đủ sức khỏe để lao động, làm ăn chân chính, bị cáo biết hành vi nhận vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn tiền để tiêu xài nên bị cáo tham gia vận chuyển hàng cấm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi của mình mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, bị cáo C phạm tội với vai trò giúp sức, đưa thuốc lá xuống vỏ tắc ráng, ngồi trước mũi để canh giữ đường và quan sát. Do đó, bị cáo C phải chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt thấp hơn so với bị cáo Lý Vũ L và tương xứng với hành vi vi phạm pháp luật của mình.

[3.3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[3.4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải đối với hành vi phạm tội đã gây ra; các bị cáo xuất thân từ thành phần lao động nghèo; bị cáo C không biết chữ nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung. [5] Xử lý vật chứng:

- 9.450 bao thuốc lá (7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram) là hàng hóa cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 vỏ tắc ráng Composite kích thước (9,8 x 1,14 x 0,55)m, gắn máy 4, động cơ xăng, không nhãn hiệu số 423, là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei 1: 353996323187601, Imei 2: 354281943187607, có gắn sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915, là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước - 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei 1: 353996323187601, Imei 2: 354281943187607, có gắn sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915, là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước [6] Về án phí: Bị cáo Lý Vũ L , bị cáo Lương Văn C , mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và điều khoản áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 3 Điều 191, Điều 17, Điều 38, Điều 46, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Khoản 2, 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh:

- Tuyên bố: Bị cáo Lý Vũ L, bị cáo Lương Văn C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lý Vũ L 06 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (15/12/2020).

- Xử phạt bị cáo Lương Văn C 05 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (15/12/2020).

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 9.450 bao thuốc lá (7.950 bao hiệu Jet, 1.000 bao hiệu Hero, 500 bao hiệu Ram) là hàng hóa cấm lưu hành.

- Tịch thu phát mãi sung vào ngân sách nhà nước 01 vỏ tắc ráng Composite kích thước (9,8 x 1,14 x 0,55)m, gắn máy 4, động cơ xăng, không nhãn hiệu số 423.

- Tịch thu phát mãi sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei 1: 353996323187601, Imei 2:

354281943187607, có gắn sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915.

- Tịch thu phát mãi sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A21S, màu xanh, Imei 1: 353996323187601, Imei 2: 354281943187607, có gắn sim số 0357.592599 và sim số 0949.535915.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25 tháng 5 năm 2021, giữa Công an huyện Châu Phú với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú.

4. Về án phí:

- Bị cáo Lý Vũ L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Lương Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:32/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;