Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 217/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020 về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐ-ST ngày 22/01/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số10/TB-TA ngày 05/02/2021 giữa:

1 Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Y, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh H – Luật sư văn phòng luật sư B – Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ: Số 2, khu …, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Dương Đình V, sinh năm 1984.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt.

Hiện đang lao động tại : Đài Loan (Trung Quốc)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn chị Vũ Thị Y trình bày:

Chị và anh V tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thị xã C, tỉnh Hải Dương (nay là phường C, thành phố C) ngày 15/6/2011. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp nhau. Năm 2014 chị đã đi Nhật Bản lao động đến tháng 5/2017 chị về Việt Nam sinh sống thì anh V đi Đài Loan (Trung Quốc) lao động. Từ khi đi nước ngoài anh V chưa về Việt Nam lần nào, vợ chồng không gặp nhau từ năm 2014 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn theo quy định.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Dương Gia V, sinh ngày 17/4/2012, hiện đang ở với chị. Chị Y có nguyện vọng được nuôi con, tự nguyện không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Mạc Thị Th là mẹ đẻ anh V xác định: Anh V hiện đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), địa chỉ cụ thể thì bà không biết, nhưng anh V thường xuyên liên lạc qua điện thoại với gia đình. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh V biết. Về quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh V chị Y sống không hạnh phúc, thời gian chị Y đi nước ngoài anh V từng làm đơn ly hôn nhưng chưa được giải quyết, khi chị Y về Việt Nam thì anh V đi nước ngoài, hai bên không gặp nhau. Sau khi nhận các văn bản tố tụng, bà đã thông báo cho anh V biết. Anh V có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung anh V đồng ý để chị Y chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung không có, nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do điều kiện không về Việt Nam để giải quyết ly hôn, nên anh V đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân phường C thể hiện: Chị Y và anh V có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện tại anh V ở nước ngoài, không có mặt tại địa phương, chị Y từng có thời gian đi nước ngoài, hiện nay đã về Việt Nam. Trong cuộc sống vợ chồng chị Y không hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, anh V từng làm đơn ly hôn nhưng chưa được giải quyết. Nay chị Y có đơn ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật để giải quyết.

Con chung của chị Y, anh V là Dương Gia V có nguyện vọng được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), bị đơn thực hiện chưa đúng quy định của BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Y được ly hôn anh V. Về con chung: Giao con chung là Dương Gia V, sinh ngày 17/4/2012, cho chị Y chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Y không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con. Chị Y phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Vũ Thị Y khởi kiện bị đơn anh Dương Đình V có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc) nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Y không cung cấp được địa chỉ của anh V ở nước ngoài. Anh V thường xuyên liên lạc điện thoại với mẹ đẻ là bà Mạc Thị Th. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã nhiều lần đề nghị người thân của anh V cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Sau khi nhận các văn bản tố tụng, gia đình đã thông báo cho anh V biết việc Tòa án giải quyết ly hôn giữa chị Y và anh V. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh V vẫn vắng mặt. Chị Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Y và anh Dương Đình V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thị xã C, tỉnh Hải Dương (nay là phường C, thành phố C) ngày 15/6/2011 nên hôn của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung, không có sự tin tưởng lẫn nhau. Năm 2014 chị Y đi lao động tại Nhật Bản, ở nhà anh V đã làm đơn ly hôn chị Y nhưng chưa được giải quyết. Khi chị Y về Việt Nam sinh sống thì anh V đã đi lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), vợ chồng không gặp gỡ nhau. Nay chị Y xác định tình cảm vợ chồng còn. Thông qua gia đình, anh V cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh có quan điểm đồng ý ly hôn. Mâu thuẫn giữa chị Y, anh V được chứng minh thông qua lời khai của đại diện gia đình anh V, quan điểm của địa phương và của các đương sự. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Y và anh Võ đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã lâu, không ai quan tâm tới ai, cuộc sống chung vợ chồng không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Y ly hôn anh V là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Vũ Thị Y và anh Dương Đình V có một con chung là Dương Gia V, sinh ngày 17/4/2012 hiện đang ở với chị Y. Xét thực tế anh V đang ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, cháu V có nguyện vọng được ở với mẹ nên để đảm bảo quyền lợi và nguyện vọng của các bên. HĐXX chấp nhận giao con chung cho chị Y nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Y không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con. Nếu như có căn cứ cho rằng chị Y nuôi con không đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền lợi của con chung thì anh V có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Y, anh V không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết phân chia tài sản chung sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật (nếu có).

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Vũ Thị Y phải chịu án phí dân sự (về hôn nhân gia đình) sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Y ly hôn anh Dương Đình V.

2.Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Dương Gia V, sinh ngày 17/4/2012 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Y không yêu cầu anh Dương Đình V phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Dương Đình V thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình). Đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí, theo biên lai thu số AA/2018/0004774 ngày 06/11/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Y được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Dương Đình V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;