Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG 

BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 517/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020, về việc: “Ly hôn ”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Bảo Ng, sinh năm 1988 Địa chỉ: số 219/14, ấp 1, xã Q, huyện H, tỉnh Vĩnh Long. Địa chỉ tạm trú: Ấp N, xã H, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

2.Bị đơn: Anh Trần Ngọc T, sinh năm 1987 ( vắng mặt) Địa chỉ: số 219/14, ấp 1, xã Q, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17 tháng 11 năm 2020 Nguyên đơn chị Lê Thị Bảo N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2011 chị và anh T qua mai mối và tiến tới kết hôn với nhau, cả hai có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Long Hồ và được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Long Hồ cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/4/2012, sau khi kết hôn chị N về chung sống bên gia đình anh T tại ấp 1, xã Q.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn mà thường xuyên cờ bạc, đá gà không lo cho cuộc sống gia đình, dẫn đến vợ chồng bất đồng ý kiến, vì vậy chị và anh T không còn sống chung từ tháng 7/2018 đến nay, chị N dẫn con về nhà cha mẹ ruột sống. Nay chị N nhận thấy không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012, chị N yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Tòa án đã gởi thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho Trần Ngọc T đến Tòa án làm việc nhưng anh T không đến. Ngày 12/01/2021 mẹ anh T có làm việc với Tòa án, bà cho rằng anh T có đăng ký hộ khẩu tại ấp 1, xã Q, huyện huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, chị N là dâu út trong nhà, dâu N tốt do con bà ăn chơi không biết ngọt ngào, có chuyện không biết năn nỉ với vợ, dẫn đến N yêu cầu ly hôn, qua mấy lần Tòa án triệu tập T đến Tòa án làm việc T biết nhưng do không đồng ý ly hôn, nên không đến Tòa án. Hiện nay vợ chồng T Ngọc đã ly thân, Ngọc về nhà cha mẹ ruột khoảng 02 năm nay, vợ chồng T N không có tài sản chung và không nợ của ai.

Xét Tòa án đã triệu tập hai lần anh T đến Tòa án giải quyết ly hôn, anh T đã nhận văn bản tố tụng của Tòa, đến ngày làm việc anh T không đến, vì vậy Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại bản ghi ý kiến của cháu Trần Ngọc Th hiện nay đã 08 tuổi, cháu ghi cha mẹ ly hôn con muốn ở với mẹ.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn chị Lê Thị Bảo N vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Trần Ngọc T, vì vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường cự cải nhau, anh T vẫn ăn chơi, không biết lo lắng cho vợ con, chị N đã đề nghị anh T lo làm ăn anh T không sửa đổi, nên chị đã về nhà cha mẹ ruột từ tháng 7/2018 cho đến nay. Về con chung: có 01 con chung tên Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012, hiện nay chị đang nuôi dưỡng, chị yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dương nuôi con. Về tài sản chung và về nợ chung anh không yêu cầu giải quyết.

Cháu Trần Ngọc Th có trình bày cha mẹ ly hôn con muốn ở với mẹ, vì mẹ lo ch con.

Bị đơn anh Trần Ngọc T đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án xét xử lần hai nhưng anh T vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án xác minh sự vắng mặt của bị đơn tại nơi cư trú, việc Tòa án thu thập chứng cứ đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và không gởi bản khai ý kiến là không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét hôn nhân của chị N và anh T là hôn nhân hợp pháp, vì vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào năm 2012. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, do anh T mê cờ bạc không lo cho gia đình và vợ chồng đã ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Cho nên hôn nhân giữa chị N và anh T có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần thiết cho ly hôn.

Từ phân tích trên trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Bảo N được ly hôn với anh Trần Ngọc T. Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012 cho chị Lê Thị Bảo N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Về án phí: Chị Bảo N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần đến Tòa án để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vẫn không đến. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử triệu tập lần hai anh T đến Tòa án xét xử, anh T có ký nhận và biết Tòa án triệu tập đến Tòa án làm việc anh T không đến và không gởi bản khai ý kiến gì về việc chị Ngọc yêu cầu ly hôn và yêu cầu nuôi con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết vắng mặt anh Trần Ngọc T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Bảo N và anh Trần Ngọc T tiến đến hôn nhân trên cơ sở mai mối, cả hai có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện H, tỉnh Vĩnh Long và được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện H, tỉnh Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 11/4/2012, nên đây là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét về mâu thuẫn chị N cho rằng đã mâu thuẫn trầm trọng, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh T ham chơi, không lo làm ăn, xảy ra chuyện gì anh T không bênh vực chị N, dẫn đến tháng 7/2018 chị Ngọc dẫn con về nhà cha mẹ ruột chị sống, thời gian đầu về nhà cha mẹ ruột anh T có tới lui, về sau này cả hai không còn liên lạc nhau. Anh T vắng mặt phiên tòa. Xét hôn nhân giữa chị N và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, hôn nhân không đạt được, cả hai hiện nay không còn sống chung, không còn yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy chấp nhận cho chị Lê Thị Bảo N được ly hôn anh Trần Ngọc T là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2.] Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012, hiện nay chị đang nuôi dưỡng, khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Tại bản khai ý kiến cháu Thiện viết cha mẹ ly hôn con muốn sống chung với mẹ là Lê Thị Bảo N. Anh T không có ý kiến gì về việc nuôi con hay không. Xét cháu Trần Ngọc Th đang sống ổn định với chị N và nguyện vọng của cháu cha mẹ ly hôn muốn sống với mẹ. Vì vậy Hội đồng xét xử giao cháu Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012 cho chị Bảo N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, phù hợp với quiy định tại Điều 81, 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Anh Trần Ngọc T có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản anh T thực hiện quyền này, phù hợp với Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Bảo N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Xét lời phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận như những nhận định ở trên.

[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Bảo N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Bảo N được ly hôn với anh Trần Ngọc T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc Th, sinh ngày 16/12/2012 cho chị Lê Thị Bảo N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Anh Trần Ngọc T có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản anh T thực hiện quyền này 3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Bảo N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc chị Lê Thị Bảo N phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006250 ngày 18/11/2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ, chị N đã nộp xong, không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với người vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được thông báo, niêm yết tại nơi cư trú của người vắng mặt .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;