Bản án 32/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 03/11/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 31/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Phạm Công T, sinh ngày 29 tháng 11 năm 19xx tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Khu xxx, thị trấn T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ và bà Đào Thị H; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 19-6-2020 đến ngày 25-6-2020 chuyển tạm giam; có mặt.

- Bị hại: Cháu Bùi Thị X, sinh ngày 04-3-2005; nơi cư trú: Tổ xxx, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Bùi Thị H, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Tổ xxx, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Hậu - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Văn Đ; có mặt.

2. Bà Đào Thị H; có mặt.

3. Chị Phạm Thị Hồng H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 6 năm 2020, thông qua mạng xã hội Facebook, Phạm Công T quen biết, nảy sinh tình cảm nam nữ với cháu Bùi Thị X. Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 18-6-2020, T điều khiển xe máy đón cháu X tại thị trấn A, huyện A để đi chơi. Đến 09 giờ 30 phút cùng ngày, T chở cháu X về nhà T chơi và ăn cơm trưa cùng gia đình tại Khu xxx, thị trấn T, huyện T. Sau khi ăn cơm xong, khoảng 12 giờ, T dẫn X lên phòng ngủ tầng 2 để nghỉ trưa. Tại đây, T nằm cạnh ôm, hôn rồi cởi quần áo của X, sau đó cả hai tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần. Sau khi quan hệ tình dục, T dùng chiếc áo cũ có sẵn ở trong phòng lau các chất dịch trên bụng cháu X rồi nằm ngủ. Đến 15 giờ cùng ngày, T chở X về nhà và X đã kể chuyện quan hệ tình dục với T cho chị gái là Bùi Thúy Q và bạn là Vũ Thị H nghe. Ngày 18-6-2020, bà Bùi Thị H - là mẹ đẻ của X phát hiện sự việc nên đã làm đơn trình báo Công an huyện Tiên Lãng.

Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 18-6-2020, T đến Công an huyện Tiên Lãng đầu thú.

Ngày 19-6-2020, Cơ quan Điều tra Công an huyện Tiên Lãng tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ 01 áo màu vàng dài tay, trên mác áo có chữ “J&Y SINGYIFUSHI”, phần trước ngực áo có vết màu nâu nghi máu kích thước 08cm x 3,5cm, phần lưng bên phải áo có vết màu nâu nghi là máu kích thước 07cm x 02cm. Ngày 18-6-2020, cháu X đã giao nộp 01 điện thoại OPPO A3S, 01 áo sơ mi, 01 quần lót, 01 quần dài. Ngày 19-6-2020, T đã giao nộp 01 điện thoại Iphone 6s, 01 áo ba lỗ, 01 quần lót và 01 quần lửng. Các đồ vật này là phương tiện và trang phục T, X đã sử dụng để liên lạc với nhau và mặc trong ngày 18-6-2020. Tiến hành nhận dạng, T đã nhận dạng được trang phục cháu X và cháu X đã nhận dạng được trang phục T mặc ngày 18-6-2020.

Tại Bản kết luận giám định số 296/2020/TD ngày 23-6-2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng, kết luận: Nạn nhân Bùi Thị X không có dấu vết tH tích, màng trinh giãn nhẹ, có vết rách mới ở vị trí 3 giờ, tím nhẹ, không thấy xác tinh trùng trong mẫu xét nghiệm. Hiện tại nạn nhân không có thai.

Tại Bản kết luận giám định số 4260/C09-TT3 ngày 31-7-2020 của Viện khoa học Hình sự, Bộ Công an, kết luận: Trên chiếc áo gửi giám định có bám dính máu người và là máu của Bùi Thị X; có bám dính tinh trùng người và là tinh trùng của Phạm Công T.

Về vật chứng: Một phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định (bên trong có 01 chiếc áo và phần còn lại của mẫu tóc ghi thu của Phạm Công T và Bùi Thị X); 01 điện thoại di động Iphone 6s, 01 áo ba lỗ màu đen, 01 quần lót màu tím than và 01 quần lửng màu đen của T; 01 điện thoại OPPO A3S, 01 áo sơ mi dài tay màu đen vàng, 01 quần lót màu đỏ, 01 quần dài màu đen của X, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng quản lý.

Về trách nhiệm dân sự: Cháu X không bị tổn hại về sức khỏe và ảnh hưởng nhiều về tinh thần nên bị hại và người đại diện H pháp của bị hại không yêu cầu T phải bồi thường và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T.

Bản Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 06-10-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng đã truy tố bị cáo T về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận việc bị điều tra, truy tố, xét xử là không sai, không bị ép buộc khai báo không đúng sự thật.

Bị hại là cháu X và người đại diện H pháp của bị hại là bà H trình bày, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đồng thời đề nghị trả lại cho cháu X 01 điện thoại OPPO A3S đã qua sử dụng, 01 áo sơ mi dài tay màu đen vàng, 01 quần lót màu đỏ, 01 quần dài màu đen.

Người làm chứng là ông Đ và bà H trình bày phù H với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Người làm chứng là chị Hạnh vắng mặt, Hội đồng xét xử công bố lời khai của chị Hạnh phù H với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại và người đại diện H pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện H pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo T: 01 điện thoại di động Iphone 6s đã qua sử dụng, 01 áo ba lỗ màu đen, 01 quần lót màu tím than và 01 quần lửng màu đen; trả lại cho bị hại X: 01 điện thoại OPPO A3S đã qua sử dụng, 01 áo sơ mi dài tay màu đen vàng, 01 quần lót màu đỏ, 01 quần dài màu đen.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nên đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; hành vi phạm tội của bị cáo là do thiếu hiểu biết pháp luật, xuất phát từ việc bị cáo và bị hại có tình cảm nam nữ. Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng để bị cáo sớm trở về với gia đình, làm việc có ích cho xã hội. Bị cáo đề nghị được nhận lại 01 điện thoại di động Iphone 6s đã qua sử dụng, 01 áo ba lỗ màu đen, 01 quần lót màu tím than; đối với 01 chiếc áo là mẫu vật hoàn lại sau giám định, bị cáo đề nghị tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng.

Người bào chữa cho bị hại: Nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo xuất phát từ tình cảm nam nữ và tại phiên tòa, cháu X và bà H không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án phù H, để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra và Điều tra viên Công an huyện Tiên Lãng, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều H pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo Phạm Công T tại phiên toà phù H các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án. Được chứng minh bằng lời khai của bị hại và người đại diện H pháp của bị hại; người làm chứng; biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; biên bản khám nghiệm và sơ đồ hiện trường; biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng; biên bản khám xét, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 18-6-2020, tại Khu xxx, thị trấn T, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, T đã quan hệ tình dục với cháu Bùi Thị X. Mặc dù giữa bị cáo và bị hại có tình cảm nam nữ, việc quan hệ tình dục là sự đồng thuận của cả hai bên; tuy nhiên, bị hại là người chưa đủ 16 tuổi (15 tuổi 03 tháng 14 ngày), nhận thức pháp luật còn hạn chế nên hành vi quan hệ tình dục tự nguyện này là trái pháp luật và bị nghiêm cấm. Như vậy, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bị cáo T là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được việc cháu X chưa đủ 16 tuổi nếu quan hệ tình dục là vi phạm pháp luật nhưng T vẫn cố ý lợi dụng tình cảm, sự thiếu hiểu biết để giao cấu với cháu X một lần vào ngày 18- 6-2020.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16. Vì vậy, phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần thiết cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại và người đại diện H pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đầu thú. Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện H pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về xử lý vật chứng:

[9] 01 phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định (bên trong có 01 chiếc áo và phần còn lại của mẫu tóc ghi thu của Phạm Công T và Bùi Thị X) không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] 01 điện thoại di động Iphone 6s, 01 áo ba lỗ màu đen, 01 quần lót màu tím than và 01 quần lửng màu đen của T; 01 điện thoại OPPO A3S, 01 áo sơ mi dài tay màu đen vàng, 01 quần lót màu đỏ, 01 quần dài màu đen của X. Các tài sản này là đồ dùng cá nhân của T và X, không liên quan đến việc phạm tội nên cần căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho T và X.

[11] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Công T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19-6-2020.

Căn cứ vào điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định, các mép niêm phong có dấu của Viện khoa học Hình sự - Bộ Công an.

Trả lại cho bị cáo T: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6s đã qua sử dụng, 01 (Một) áo ba lỗ màu đen, 01 (Một) quần lót màu tím than và 01 (Một) quần lửng màu đen.

Trả lại cho bị hại Bùi Thị X: 01 (Một) điện thoại OPPO A3S đã qua sử dụng, 01 (Một) áo sơ mi dài tay màu đen vàng, 01 (Một) quần lót màu đỏ, 01 (Một) quần dài màu đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo T, bị hại là cháu X và người đại diện H pháp của bị hại là bà Bùi Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích H pháp của cháu X có quyền kháng cáo (phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của cháu X) trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;