TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 32/2020/HS-PT NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 555/2019/HSPT ngày 10/12/2019 đối với bị cáo Nguyễn Bích A do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bích A và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đối với bản án hình sự sơ thẩm số 306/2019/HSST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức.
Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Nguyễn Bích A (tên gọi khác: LucA); sinh năm 1990 tại tỉnh Bình Thuận; nơi thường trú: xã B, huyện C, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Phạm Thị E; có vợ Phan Thị Nhã G và 01 con sinh năm 2013; tiền sự: không; tiền án: ngày 09/07/2015 bị Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và “Bắt, giữ người trái pháp luật”, chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2017. Bị bắt, tạm giam ngày 04/01/2019. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 04/01/2018, tại trước nhà số 34/6, Đường số 3, Khu phố 6, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh Công an quận Thủ Đức phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Bích A đang điều khiển xe mô tô biển số 61H1-357.71 chở Đặng Thanh H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần của A 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1196gam, loại Methamphetamine; phía sau mặt nạ đuôi xe gắn máy biển số 61H1-357.71 có 09 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng 5,9348gam, loại Methamphetamine; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh. (Theo kết luận giám định số 338/KLGĐ-H ngày 14/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Bích A khai nhận: bản thân nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng và có tiền tiêu xài thì A đã mua ma túy và bán ma túy cho người nghiện kiếm lời từ đầu tháng 12/2018 cho đến ngày bị bắt. Khoảng 15 giờ ngày 03/01/2019, A đặt mua ma túy của người tên Long (không rõ lai lịch) 02 hộp mười ma túy với giá 9.200.000 đồng, nhưng Long nói chỉ còn hộp năm giá 2.300.000 đồng thì A đồng ý mua. Đến 17 giờ cùng ngày, A đến phòng trọ của Đặng Thanh H tại số 36 Lô G8, khu phố Phú Hội, phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương mượn 9.200.000 đồng của H, A lấy 2.300.000 đồng mua ma túy được 10 gói rồi về đưa cho H giữ, còn 6.900.000 đồng A đi chơi game bắn cá hết. Khoảng 11 giờ ngày 04/01/2019, khi A đang ngủ ở phòng trọ của H thì Y Bình (không rõ lai lịch) gọi điện hỏi mua hộp năm ma túy với giá 2.800.000 đồng và hẹn giao ma túy ở phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì A đồng ý. Sau đó, A nói H đưa ma túy để đi bán, A lấy 09 gói ma túy quấn băng keo đen và dán vào phía trong trước xe mô tô biển số 64H1-357.71, còn 01 gói ma túy bỏ vào túi quần trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô chở H đi bán ma túy. Khi A và H đi đến trước nhà số 34/6, Đường số 3, Khu phố 6, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì bị Công an quận Thủ Đức kiểm tra bắt quả tang và thu giữ số ma túy trên. Đến ngày 23/01/2019, Nguyễn Bích A thay đổi lời khai, không thừa nhận đã mua ma túy về bán lại kiếm lời, số ma túy ở phía trước xe mô tô của ai thì A không biết.
Đặng Thanh H khai nhận: khoảng 11 giờ 00 phút ngày 04/01/2019, Nguyễn Bích A rủ H đi sinh nhật bạn tại quận Thủ Đức, khi đi đến khu vực phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì bị công an kiểm tra bắt giữ. H không biết A có cất giấu ma túy trong người và gián lên xe của H, H không liên quan gì đến việc mua bán ma túy của A.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 306/2019/HSST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Bích A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điều 249 khoản 2 điểm g; điều 51 khoản 1 điểm s; điều 52 khoản 1 điểm h Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Bích A 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2019.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 29/10/2019, bị cáo Nguyễn Bích A kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 11/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức ra quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/KN-VKSTD kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố bị cáo Nguyễn Bích A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; sửa đổi điều luật áp dụng, không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Bích A.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức là không có cơ sở nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xin rút lại toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức. Bị cáo Nguyễn Bích A chỉ thừa nhận việc cất giấu 01 gói nylon chứa ma túy trong túi quần và bị bắt giữ, riêng 09 gói nylon chứa ma túy thu giữ ở xe gắn máy không phải là của bị cáo, bị cáo cất giữ ma túy để sử dụng chứ không phải mang ma túy để bán cho người khác. Khi bị bắt quả tang, do bị ép cung nên bị cáo mới khai là ma túy của bị cáo và bị cáo mang ma túy đi bán cho đối tượng Y Bình, mong muốn được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình, hòa nhập xã hội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: mặc dù tại phiên tòa bị cáo khai nhận chỉ tàng trữ 01 gói ma túy có khối lượng 0,1196gam, loại Methamphetamine cất giữ trong túi quần để sử dụng, còn 09 gói ma túy thu giữ trên xe gắn máy không phải là của bị cáo. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung vụ án, tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản tự khai và biên bản ghi lời khai ngày 04/01/2019, biên bản đối chất ngày 05/01/2019 giữa Nguyễn Bích A và Đặng Thanh H có sự chứng kiến của Kiểm sát viên, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do chưa chứng minh được người mua và bán ma túy nên chỉ có cơ sở để xác định: ngày 04/01/2019, tại trước nhà số 34/6, Đường số 3, Khu phố 6, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Bích A bị phát hiện và bắt quả tang khi đang cất giữ 10 gói ma túy ở thể rắn có tổng khối lượng là 6,0544gam, loại Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Nguyễn Bích A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng nhưng bị cáo có 01 tiền án về tội rất nghiêm trọng, nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng, nên cấp sơ thẩm xem xét bị cáo theo điểm g khoản 2 mà không áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có thiếu sót. Mặc dù vậy, nhưng mức án 07 năm tù đã tuyên với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi bị cáo gây ra, để không làm xấu đi tình trạng của bị cáo thì Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên và đề nghị rút kinh nghiệm với quan điểm đã truy tố và xét xử với bị cáo.
Bị cáo nghe rõ nội dung phát biểu của Viện kiểm sát, chỉ đề nghị xem xét số ma túy thu giữ trong xe không phải là của bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình, hòa nhập xã hội, làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình; riêng một số biên bản hỏi cung bị can, bị cáo thay đổi lời khai và cho rằng trước đó bị ép cung, bức cung nhưng không đưa ra được tài liệu nào chứng minh nên chưa có căn cứ để chấp nhận. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Nguyễn Bích A đã thừa nhận một phần hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu.
Mặc dù quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Bích A đã thay đổi lời khai, không thừa nhận đã mua ma túy về nhằm mục đích để bán lại cho người khác mà chỉ mua về để sử dụng, 09 gói ma túy thu giữ trên xe không phải là của bị cáo. Lời khai bản đầu tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản tự khai và bị cáo bị ép cung, nhục hình. Tuy nhiên, bị cáo không nêu ra được căn cứ nào thể hiện bị ép cung, nhục hình, không nêu được căn cứ xác định số ma túy thu giữ trên xe là của người khác, không phải của bị cáo. Căn cứ vào lời khai ban đầu của bị cáo, lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: các biên bản hoạt động điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 03/01/2019, bị cáo Nguyễn Bích A đã mua một hộp năm ma túy đá của một người tên Long (không rõ lai lịch) với giá 2.300.000 đồng mang về cất giữ sử dụng và bán cho người nghiện. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 04/01/2019, khi đang ngủ tại nhà Đặng Thanh H, có đối tượng tên Y Bình (không rõ lai lịch) gọi điện cho bị cáo đặt mua một hộp năm ma túy đá với giá 2.800.000 đồng và hẹn giao ma túy ở phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì bị cáo đồng ý. Bị cáo đã lấy 09 gói ma túy quấn băng keo đen dán vào phía mặt nạ xe mô tô biển số 64H1-357.71, còn 01 gói ma túy bỏ vào túi quần trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô chở H đi bán ma túy thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Thu giữ trong túi quần của bị cáo: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1196gam, loại Methamphetamine; phía sau mặt nạ đuôi xe gắn máy biển số 61H1-357.71 có 09 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng 5,9348gam, loại Methamphetamine; tổng cộng là 6,0544gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. (Theo kết luận giám định số 338/KLGĐ-H ngày 14/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).
Quá trình điều tra bị cáo thay đổi lời khai không mua bán ma túy, 09 gói ma túy thu giữ trên xe gắn máy không phải là của bị cáo, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng Cơ quan điều tra, viện kiểm sát cũng không thu thập được chứng cứ nào khác và vẫn truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do không chứng minh được việc mua, bán ma túy, người mua, người bán ma túy với bị cáo và chỉ có căn cứ để xác định bị cáo là người mua ma túy về cất giữ trong người và xe gắn máy biển số 64H1-357.71, bị cáo cũng là người liên hệ trực tiếp với Y Bình, là người điều khiển xe gắn máy trên nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với toàn bộ 10 gói ma túy có tổng khối lượng 6,0544gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine đã cất giữ là có cơ sở.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng nêu quan điểm rút toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức và cho rằng bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, việc Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử bị cáo Nguyễn Bích A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
Lập luận trên cũng là cơ sở để không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo cho rằng bị cáo chỉ cất giữ 01 gói ma túy trong túi quần có khối lượng 0,1196gam, loại Methamphetamine để sử dụng.
[3] Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đề nghị thay đổi tội danh sang tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, sửa đổi điều luật áp dụng, không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Bích A. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã rút toàn bộ kháng nghị số 04/KN-VKSTD ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức nên căn cứ vào khoản 1 Điều 342 và Điều 348 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị và không xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức.
[4] Đối với kháng cáo của bị cáo: xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo chưa thể hiện thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Mặc dù bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không nêu thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Tuy nhiên, với khối lượng ma túy của bị cáo bị thu giữ phải chịu trách nhiệm hình sự là 6,0544gam loại Methamphetamine nằm ở đầu khung hình phạt nên mức án 07 năm tù với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
Vì vậy, để tạo điều kiện cho bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng, lao động và sửa chữa lỗi lầm để trở thành người lương thiện sống có ích cho xã hội, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.
Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 342; Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị số 04/KN-VKSTD ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bích A, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 306/2019/HSST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức.
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bích A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Bích A 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2019.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Nguyễn Bích A phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 32/2020/HS-PT ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 32/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về