Bản án 32/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn H, sinh năm 1986 tại An Giang; nơi cư trú: Ấp T, xã Th, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1959 và bà Đặng Thị L, sinh năm 1965; vợ tên Cổ Thị Bích L và 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-10-2018 cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Văn N, sinh năm 1998 tại An Giang; nơi cư trú: Ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1977 và bà Trần Thị Tuyết Tr (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-10-2018 cho đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn T;

2. Ông Trần Thanh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn N và Trần Văn H là bạn bè sống cùng phòng trọ số 3 nhà trọ Hai Thành thuộc ấp 1, xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 25-10-2018, H rủ N góp tiền mua ma túy thì N đồng ý và đưa 100.000 đồng. Sau đó, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 50F-1041 chở H đến khu vực vòng xoay A thuộc phường A, thị xã Th, tỉnh Bình Dương để mua ma túy. Trên đường đi, H dùng điện thoại di động gọi cho một người tên C (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy. Đến nơi, H bảo N vào quán nước bên đường còn mình điều khiển xe vào con hẻm gần vòng xoay A để gặp C. C bảo N chở vào sâu trong hẻm, trên đường đi N đưa cho C 200.000 đồng. Đi được 300m thì C xuống xe đi bộ còn N dừng xe đợi. Khoảng 05 phút sau, C quay lại đưa cho N một vỏ bao thuốc lá hiệu JET, bên trong có một bịch nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. Sau đó N điều khiển xe quay lại quán nước chở H quay về phòng trọ. Đến khoảng 22 giờ 40 phút, khi cả hai đang đi trên đường thuộc ấp 4, xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì lực lượng tuần tra Công an xã V nhận thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện trên người N có một vỏ bao thuốc lá hiệu JET, bên trong có một bịch ny lon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng.

Công an xã V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ vật chứng là 01 bịch nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET và 01 xe mô tô hiệu Dream, biển số 50F-1041, số máy VHH1P50FMG301022399, số khung VMXPCC2201U022399. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ của Trần Văn H 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, có sim số 0944.431.2018.

Tại Bản kết luận giám định số 647/MT-PC09 ngày 30-10-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:  Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ   của   các   bị   cáo   là   ma   túy,   có   trọng   lượng   0,1979   gam,   loại Methamphetamine.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 50F-1041, số máy VHH1P50FMG301022399, số khung VMXPCC2201U022399, qua trình điều tra xác định xe mô tô biển số 50F-1041 số máy 1118266, số khung 18847 do ông Nguyễn Văn C1, địa chỉ: 148/12 Nguyễn Văn C, phường Nguyễn Cư Tr, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên trong giấy đăng ký xe. Số máy và số khung của xe thu giữ của bị cáo không có trong cơ sở dữ liệu. Trần Văn H khai mua lại xe này của một người đàn ông không rõ lai lịch tại phường A, thị xã Th, tỉnh Bình Dương vào tháng 4/2018 với giá 1.000.000 đồng, xe không có giấy đăng ký và không làm thủ tục mua bán xe.

Đối với đối tượng tên C là người đã bán ma tuý cho N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T chưa xác định được lai lịch nên chưa xử lý.

Bản Cáo trạng số 22/CT-VKSTU ngày 29-01-2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố hai bị cáo Trần Văn H, Nguyễn Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và cho rằng hai bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn N từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, hai bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn N khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như vật chứng thu giữ trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 25-10-2018, tại đoạn đường thuộc ấp 4, xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Trần Văn H và Nguyễn Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 0,1979 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của hai bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố hai bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện; xâm phạm an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Do đó cần xử các bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, giáo dục.

[4] Xét về vai trò của hai bị cáo, theo đại diện Viện kiểm sát bị cáo H là người rủ rê, liên hệ người mua ma túy nên có vai trò cao hơn, tuy nhiên, qua diễn biến tại phiên tòa cho thấy hai bị cáo có vai trò ngang nhau thể hiện qua việc hùn tiền và cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng chung. Do đó, cần xử mức hình phạt của hai bị cáo bằng nhau.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là cao nên cần xử hai bị cáo mức án nhẹ hơn để phù hợp với tính chất, mức độ tội phạm và nhân thân các bị cáo.

[8] Đối với đối tượng tên C có hành vi bán ma túy do chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,1979 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng bên trong có sim số 0944.431.2018 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 50F-1041, số máy VHH1P50FMG301022399, số khung VMXPCC2201U022399 là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lývà sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26-10-2018.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26-10-2018.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET và 01 bìa thư niêm phong bên trong có chứa chất ma túy Methamphetamine, bên ngoài bìa thư có ký hiệu 647/PC09, có chữ ký của người bị bắt Nguyễn Văn N, Trần Văn H, chữ ký của người chứng kiến Trần Văn T, Trần Thanh L, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Văn B, mộc dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Phan Văn T – Phó trưởng Công an xã V và mộc dấu của Công an xã V.

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, IMEI1: 867764025496517, IMEI2: 867764025496509, có gắn 01 thẻ sim Vinaphone số 89840-20001-06604-52020 (Không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong) và 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 50F-1041, sốmáy: VHH1P50FMG301022399, số khung: VMXPCC2201U022399 (Không có bửng chắn gió).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30-01-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;