Bản án 32/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Kim T; Sinh ngày 08 tháng 4 năm 1984; Tại: Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn x, xã P, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông: Trịnh Kim H (đã chết) và con bà Nguyễn Thị L. Bị cáo có vợ là Ngô Thị Th, sinh năm 1991 và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 07/11/2018, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Hiện đang tạm giam – có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Kim T là đối tượng nghiện ma túy loại Heroine. Khoảng 6 giờ 00 phút ngày 07/11/2018, T một mình đón xe buýt từ huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk lên thành phố Buôn Ma Thuột để mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực Km 3, thành phố Buôn Ma Thuột T xuống xe và đi bộ vào trong đường hẻm Y Ni K, phường Tân L, thành phố Buôn Ma Thuột để mua ma túy. Đến nơi, T đứng trước một ngôi nhà được rào kín (không rõ số nhà) đưa số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) qua một khe cổng thì được người bên trong đưa lại cho 02 gói giấy bạc bên trong có chứa chất rắn màu trắng. Khoảng 7 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi mua được ma túy, T đi tìm nơi sử dụng, khi đến khu vực công viên Phù Đ, tổ dân phố x, phường Tân A, thành phố Buôn Ma Thuột thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người của T 02 gói giấy bạc có chứa chất ma túy và đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tại Kết luận giám định số 1002/GĐMT-PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Chất rắn dạng cục màu trắng đựng trong 02 gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,1960 gam. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1774 gam.

Tại bản cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 10/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố Trịnh Kim T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Kim T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trịnh Kim T phạm tội “Tàng trữ tráiphép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Trịnh Kim T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy đối với: 0,1774 gam Heroine còn lại sau giám định niêm phong tại gói số 1002/GĐMT- PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 07/11/2018 tại công viên Phù Đ, thuộc tổ dân phố x, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Trịnh Kim T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1960 gam chất ma túy loại Heroine. Tại các biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa bị cáo T đều thừa nhận mục đích mua ma túy về để sử dụng cho việc nghiện hút của bản thân.

Do đó hành vi của bị cáo Trịnh Kim T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. 

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm, gây mất trật tự trị an trong xã hội. Chất ma túy là chất kích thích gây nghiện, hành vi tự ý tàng trữ chất ma túy đã xâm phạm đến việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Song do bị cáo là người nghiện ma túy và để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Trịnh Kim T theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý nghiêm khắc buộc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm mới đủ cải tạo, giáo dục bị cáo từ bỏ ma túy cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong xã hội.

[2.2] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Xét bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của nhà nước ta.

[2.3] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Trịnh Kim T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[2.4] Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai mua của một người (không rõ nhân thân, lai lịch) tại một căn nhà trong đường hẻm Y Ni K, phường Tân L, thành phố B (không rõ đặc điểm, số nhà). Tuy nhiên, đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng nên tách hành vi bán ma túy của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[2.5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy đối với: 0,1774 gam Heroine còn lại sau giám định niêm phong tại gói số 1002/GĐMT-PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

[2.6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trịnh Kim T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trịnh Kim T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 07/11/2018).

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy đối với: 0,1774 gam Heroine còn lại sau giám định niêm phong tại gói số 1002/GĐMT-PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trịnh Kim T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;