Bản án 32/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hà Văn Th; tên gọi khác: Không, sinh năm 1984 tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T, sinh năm 1959 và bà Lò Thị L, sinh năm 1962 bị cáo có vợ là Hà Thị H, sinh năm 1987 và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: không. Bị bắt giam giữ ngày 10/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2. Hà Văn H; tên gọi khác: Không, sinh năm 1984 tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Nh, sinh năm 1957 và bà Hà Thị X, sinh năm 1958 bị cáo có vợ là Bùi Thị M, sinh năm 1991 và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị bắt giam giữ ngày 10/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Bùi Thị M, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Đặng Quốc Ch, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn Tr, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/01/2019, tổ công tác Công an huyện V làm nhiệm vụ tại bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra xe máy BKS: 28H1-301.15 do Hà Văn H điều khiển phía sau chở Hà Văn Th. Qua kiểm tra phát hiện Hà Văn Th đang cất giấu trong người một gói nilon màu đen, tiếp đến là lớp giấy bạc màu trắng, bên trong đựng chất bột màu trắng. Hà Văn H và Hà Văn Th khai nhận đó là gói heroine của H và Th cùng nhau đi mua được, mục đích mang về cùng nhau sử dụng. Căn cứ vào lời khai nhận và vật chứng thu giữ tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải Th và H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V để điều tra làm rõ.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nilon màu đen bên trong đựng chất bột màu trắng, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Wave màu sơn đỏ đen đã qua sử dụng BKS: 28H1-301.15, 01 đăng ký xe máy mang tên Bùi Thị M số 024958 do công an tỉnh Hòa Bình cấp ngày 05/4/2017, 01 chứng minh nhân dân số 113260939 mang tên Hà Văn H.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số chất bột màu trắng đựng trong 01 gói nilon thu giữ của Hà Văn Th và Hà Văn H có khối lượng 0,14 gam, lấy 0,04 gam làm mẫu giám định ký hiệu TH; mẫu giám định TH được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 226 ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu TH là ma túy; loại heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,04 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,14 gam, loại heroine”.

Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 01/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H mỗi bị cáo từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,1 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn Th; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn H.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V trả lại cho Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Bùi Thị M 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Wave màu sơn đỏ đen đã qua sử dụng BKS: 28H1-301.15; 01 đăng ký xe máy mang tên Bùi Thị M số 024958 do công an tỉnh Hòa Bình cấp ngày 05/4/2017, 01 chứng minh nhân dân số 113260939 mang tên Hà Văn H.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo Hà Văn Th: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Ý kiến của bị cáo Hà Văn H: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo Hà Văn Th nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo Hà Văn H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Hà Văn Th, Hà Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 226 ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến anh Đặng Quốc Ch, Bản tự khai, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can thể hiện: Ngày 10/01/2019, các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H đã có hành vi tàng trữ 0,14 gam heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Bị cáo Hà Văn Th là người khởi sướng, rủ rê bị cáo Hà Văn H đi mua ma túy để sử dụng, trực tiếp đưa tiền cho bị cáo Hợp mua ma túy, trực tiếp cất giấu ma túy. Bị cáo Hà Văn H dùng phương tiện để trở Thanh đi mua ma túy, là người trực tiếp giao dịch mua ma túy để cùng Hà Văn Th sử dụng nên là đồng phạm; áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự về đồng phạm đối với các bị cáo. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nhưng xét vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy bị cáo Hà Văn Th giữ vai trò lớn hơn thể hiện qua việc khởi sướng, rủ rê, lôi kéo, trực tiếp dùng tiền để bị cáo Hà Văn H thực hiện mua ma túy và trực tiếp là người cất giấu ma túy.

-Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

-Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

-Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo đều biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội do bản thân nghiện ma túy. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại bản C, xã L, huyện V. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra, buộc Hà Văn Th, Hà Văn H phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy thu giữ.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,1 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn Th, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn H là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại Wave màu sơn đỏ đen đã qua sử dụng BKS: 28H1-301.15 và Giấy Đăng ký xe mang tên Bùi Thị M là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị M, Chiếc xe là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, việc bị cáo H dùng xe đi mua ma túy chị M không biết nên ngày 07/03/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại cho chị Bùi Thị M 01 chiếc xe máy trên là có căn cứ. Đối với 01 chứng minh nhân dân số 11326039 mang tên Hà Văn H, Cơ quan điều tra đã trả cho chị Bùi Thị M, tại phiên tòa bị cáo H nhất trí để chị Bùi Thị M quản lý chứng minh nhân dân số 113260939 của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án 1.Tuyên bố các bị cáo Hà Văn Th, Hà Văn H phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hà Văn Th 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

Xử phạt bị cáo Hà Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,1 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn Th, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà Văn H.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V trả lại cho Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Bùi Thị M 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại Wave màu sơn đỏ đen đã qua sử dụng BKS: 28H1-301.15 và 01 giấy đăng ký xe mang tên Bùi Thị M, 01 chứng minh nhân dân số 113260939 của bị cáo Hà Văn H.

3. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;