Bản án 32/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn L; tên gọi khác: Không. Sinh ngày 19/6/1991, tại: Thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn H, sinh năm 1955 và con bà Quàng Thị X, sinh năm 1966; có vợ: Lò Thị N, sinh năm 1992 và có 01 người con, sinh năm 2014; tiền sự: Không, tiền án: Không; nhân thân: Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử tại Bản án số: 32/2009/HSST ngày 26/02/2009 về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2019 đến ngày 10/01/2019 bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo bị tạm giữ 03 ngày). Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Lò Văn Q, sinh năm 1982; nơi cư trú: Bản Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ ngày 07/01/2019 bị cáo Lò Văn L một mình đi bộ từ nhà ở bản Đ, Thị Trấn T, huyện T đến Trung tâm Y tế huyện T uống thuốc Methadone. Sau khi uống thuốc xong, bị cáo đi sang nhà Lò Văn Q, sinh năm 1982 ở cùng bản, đến cổng nhà Q thì bị cáo gọi “có ma túy tổng hợp Methamphetamine không, bán cho hai viên”, Q trả lời “ có, đứng ở ngoài đợi để tôi lấy ra bán cho”. Lò Văn Q đi vào trong nhà khoảng 02 phút sau thì đi ra, bị cáo đưa cho Q số tiền 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng), Q đưa cho bị cáo 01 gói nilon màu trắng bên trong có 02 viên màu hồng Methamphetamine. Việc trao đổi mua bán ma túy chỉ có Q và bị cáo biết với nhau, không cân xác định khối lượng. Sau khi mua được Methamphetamine, bị cáo cất giấu vào trong túi áo bên trái đang mặc đi vào khu vực uống Methadone tại Trung tâm Y tế huyện T thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ của bị cáo Lò Văn L 02 viên Methamphetamine, khối lượng 0,2 gam.

Tại bản Kết luận giám định số: 239/GĐ-PC09 ngày 26/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn L gửi giám định là ma tuý: Loại Methamphetamine. Khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn L là 0,2 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn L khai nhận: Vào khoảng 08 giờ ngày 07/01/2019 bị cáo mua 02 viên Methamphetamine với giá 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng) của Lò Văn Q nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Methamphetamine (ma túy tổng hợp) bị cáo chưa kịp sử dụng, thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 02 viên Methamphetamine, khối lượng 0,2 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKS ngày 18 tháng 4 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,1 gam viên nén màu hồng Methamphetamine (ma túy tổng hợp) là vật chứng còn lại của bị cáo. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 07 tháng 01 năm 2019 bị cáo mua 02 viên Methamphetamine, với giá 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng) của Lò Văn Q nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Methamphetamine bị cáo chưa kịp sử dụng, bị Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 02 viên nén màu hồng Methamphetamine (ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,2 gam. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo nghiện chất ma túy năm 2007; năm 2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt bị cáo 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đến nay bị cáo đã được xóa án tích; từ năm 2013 đến nay tham gia điều trị thay thế nghiện các chất ma túy bằng thuốc Methadone tại Trung tâm Y tế huyện T, tỉnh Điện Biên. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp và bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[7] Đối với Lò Văn Q, người mà bị cáo khai đã bán Methamphetamine cho bị cáo. Quá trình điều tra, đối chất tại Cơ quan điều tra Q không thừa nhận việc bán Methamphetamine cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo ra không có chứng cứ nào khác chứng minh Q đã bán Methamphetamine cho bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo không có đủ căn cứ để xử lý đối với Lò Văn Q, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,1 gam viên nén màu hồng Methamphetamine là vật chứng còn lại của bị cáo, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Án phí: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn L 12 (mười hai) tháng tù, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ 03 (ba) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành tiếp là 11 (mười một) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,1 gam viên nén màu hồng Methamphetamine (ma túy tổng hợp) là vật chứng còn lại của bị cáo theo Phiếu nhập kho số: PNKVC 51 ngày 22/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 15/5/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;