Bản án 32/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Hữu D, sinh ngày 06 tháng 3 năm 1975 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường N, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu T (đã chết) và bà Trần Thị M (đã chết); có vợ là Vũ Thị L và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 94/HSST ngày 17/9/1994 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng” (đã được xóa án tích); Bản án số 199/HSST ngày 19/12/1995 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản công dân” (đã được xóa án tích); Bản án số 97/HSST ngày 29/8/1997 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội “Làm hư hỏng tài sản XHCN” (đã được xóa án tích); Bản án số 17/HSST ngày 09/02/2001 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 42 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích); Bản án số 40/HSST ngày 04/3/2005 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 13/01/2019, tạm giam ngày 15/01/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 13 tháng 01 năm 2019, tại đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng, Công an phường Đồng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kiểm tra bắt quả tang Phạm Hữu D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong lòng bàn tay phải của Phạm Hữu D 01 gói giấy kích thước 0,5 cm x 1 cm, bên trong có chất bột màu trắng; 01 xe đạp mini màu đỏ đã cũ. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng trưng cầu gửi giám định.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Hữu D tại đường N, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng không thu giữ được vật chứng liên quan đến ma túy.

Kết luận giám định số 29/KLGĐ(Đ6) ngày 14/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Mẫu chất bột thu giữ của Phạm Hữu D gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1411 gam, là loại: Heroine.

Quá trình điều tra Phạm Hữu D khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy nên Phạm Hữu D thường xuyên mua ma túy về sử dụng. Khoảng 07 giờ ngày 13 tháng 01 năm 2019, Phạm Hữu D đi xe đạp một mình đến khu vực đường tàu Cầu Đất, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong Phạm Hữu D cầm gói ma túy ở tay phải rồi đạp xe đi tìm nơi sử dụng, khi đến trước cửa số nhà 28/213 đường Lạch Tray thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng.

Lời khai nhận tội nêu trên của Phạm Hữu D phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Kết quả xác minh chiếc xe đạp mini màu đỏ thu giữ của Phạm Hữu D là của anh Phạm Hữu C (anh trai D), anh C cho D mượn nhưng không biết D dùng xe để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe đạp cho anh C là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 19/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Hữu D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hữu D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Hữu D với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 29/2019/PC09.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 13/01/2019, tại đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng, Công an phường Đồng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát hiện bắt quả tang Phạm Hữu D có hành vi tàng trữ trái phép 0,1411 gam ma túy Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Việc cất giấu chất ma túy của bị cáo Phạm Hữu D không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Tại thời điểm thực hiện hành vi (ngày 13/01/2019), bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Hữu D đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.

- Xét về nhân thân của bị cáo:

[4] Bị cáo Phạm Hữu D có 05 tiền án: Tại Bản án số 94/HSST ngày 17/9/1994 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng”; Bản án số 199/HSST ngày 19/12/1995 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản công dân”; Bản án số 97/HSST ngày 29/8/1997 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội "Làm hư hỏng tài sản XHCN”; Bản án số 17/HSST ngày 09/02/2001 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 42 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản”; Bản án số 40/HSST ngày 04/3/2005 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản” (đều đã được xóa án tích) nên cần đánh giá bị cáo có nhân thân xấu.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[5] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bắt bị cáo tiếp tục cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[8] Căn cứ biên bản xác minh ngày 22 tháng 02 năm 2019 cho thấy bị cáo không có tài sản, không nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[9] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 29/2019/PC09.

[10] Chiếc xe đạp mini màu đỏ thu giữ của Phạm Hữu D là xe của anh Phạm Hữu Cương (anh trai Dương), kết quả xác minh anh Cương cho Dương mượn nhưng không biết Dương dùng xe để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe đạp cho anh Cương là chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[11] Bị cáo Phạm Hữu D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[13] Trong vụ án này, đối với người phụ nữ bán ma túy cho Phạm Hữu D, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được căn cước, lai lịch, tiếp tục xác minh làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Hữu D 18 (mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13 tháng 01 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 29/2019/PC09, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Hữu D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Hữu D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;