Bản án 32/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 05 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Đăng L - Sinh ngày 31 tháng 01 năm 1985 tại xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 14, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức Cầu và bà Phạm Thị Nụ; có vợ là chị Nguyễn Thị Kim Oanh (đã ly hôn) và 01 con; tiền án: Ngày 16/11/2016, bị TAND huyện Giao Thủy xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến nay; hiện bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Giao Thủy; “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Bình – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định; „có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h35 ngày 15/01/2019, tổ công tác Đồn Công an Quất Lâm - Công an huyện Giao Thủy làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực trước cổng nhà nghỉ Hương Liên trên trục đường 37B thuộc Tổ dân phố Lâm Quý, TT Quất Lâm, huyện Giao Thủy phát hiện Trần Đăng L đi xe máy BKS: 29S5-9311 có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ công tác yêu cầu Trần Đăng L dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Trần Đăng L tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 gói nhỏ (01 gói nhỏ bên ngoài bọc giấy bạc bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 gói ni lông bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, Trần Đăng L khai là gói heroine và gói ma túy đá vừa mua để sử dụng), được niêm phong ký hiệu MI và MII.

Tại Bản kết luận giám định số 95/GĐKTHS ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột màu trắng trong 01 (một) gói giấy bạc được niêm phong ký hiệu MI gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: heroine. Khối lượng mẫu MI: 0,107 gam Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nhỏ túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu MII gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu MII: 0,716 gam.” Bản Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 27/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Trần Đăng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Đăng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Đăng L từ 30 đến 36 tháng tù, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ trong vụ án.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tới hoàn cảnh gia đình bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết hợp với kết luận giám định về số ma túy thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/01/2019, Trần Đăng L có hành vi cất giấu 0,107 gam Heroine và 0,716 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trục đường 37B thuộc Tổ dân phố Lâm Quý, thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy.

Các chất Methamphetamine và Heroine đều quy định trong cùng một điểm tại các khoản của Điều 249 Bộ luật Hình sự (cụ thể gồm: điểm c khoản 1, điểm g khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 249). Vì vậy, áp dụng quy định tại Điều 4 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP, cộng khối lượng của các chất ma túy là 0,823gam; đối chiếu với quy định các điểm đã nêu, thì trong trường hợp này tổng khối lượng của 2 chất ma túy tương đương với khối lượng của Heroin, Methamphetamin được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy, tổng khối lượng của 2 chất ma túy này thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, cụ thể: “i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.” Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Đăng L đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Tính nguy hiểm của hành vi còn thể hiện ở chỗ: Tệ nạn ma tuý đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội, nó không chỉ huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng; là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ nhận thức, đã bị kết án và chấp hành hình phạt tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thấu hiểu về tác hại, về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội về ma túy, song vẫn phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có đã bị kết án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đủ tác dụng cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản giá trị, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, như quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Số ma túy là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc số Hêrôin: L khai mua của một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực chợ Bến, xã Giao Phong, huyện Giao Thủy. Quá trình điều tra không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho L nên CQĐT không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Đăng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Trần Đăng L 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.(Được ghi chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Đăng L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Đăng L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;