Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số 103/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng L, sinh năm 1987. (Có mặt)

Chỗ ở: SN 05, ngõ 10, TDP P2, phường D, thành phố B, tỉnh B.

2. Bị đơn: Chị Trần Huyền N, sinh năm 1988. (Có mặt)

Địa chỉ: SN 50, Đường C, Phường TNH, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/3/2019 và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là anh Hoàng L trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Anh và chị Trần Huyền N kết hôn ngày 08/12/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trên cơ sở tự nguyện. Khi kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay và thuê nhà ở riêng ở thành phố Bắc Giang. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì thường xuyên có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Từ tháng 01/2019 đến nay anh chị sống ly thân nhau và không ai còn mối liên hệ gì với ai. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Huyền N.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Lâm, sinh ngày 17/02/2015. Hiện nay con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang ở với chị Trần Huyền N. Sau khi ly hôn, anh có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu chị Trần Huyền N cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay anh đang công tác tại Công an thành phố Bắc Giang, lương hơn 9.000.000 đồng/tháng, đủ đảm bảo để nuôi con.

Về tài sản chung: Anh Hoàng L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 09/4/2019 và những lời khai tiếp theo tại Tòa án thì bị đơn là chị Trần Huyền N trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Hoàng L kết hôn ngày 08/12/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trên cơ sở tự nguyện. Sau khi đăng ký kết hôn, anh chị được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay và ở riêng tại thành phố Bắc Giang, cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Thực tế thì có những bất đồng quan điểm giữa mẹ chồng và con dâu chứ vợ chồng thì không có mâu thuẫn gì. Từ tháng 3/2019 anh Hoàng L đã tự ý về nhà bố mẹ đẻ ở Dĩnh Kế sinh sống cho đến nay. Từ khi anh Hoàng L về sống cùng bố mẹ đẻ đến nay thì vợ chồng không gặp gỡ nhau, thỉnh thoảng có việc vẫn nhắn tin cho nhau. Chị đề nghị Tòa án hòa giải để hai vợ chồng về đoàn tụ với nhau vì chị thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, vợ chồng không có mâu thuẫn gì, anh Hoàng L khởi kiện ly hôn chị, chị không đồng ý ly hôn. Nay, tại phiên tòa anh Hoàng L quyết tâm ly hôn, chị cũng đồng ý.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Lâm, sinh ngày 17/02/2015. Hiện nay con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang ở với chị. Trường hợp phải ly hôn thì chị có nguyện vọng nuôi con chung. Chị yêu cầu anh Hoàng L cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đồng/tháng kể từ tháng 6/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Hiện nay chị đang làm việc tại Công ty Dược phẩm Bắc Giang, lương hơn 9.000.000 đồng/ tháng, đủ đảm bảo để nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành làm việc xác minh với bố đẻ của anh Hoàng L là ông Hoàng Văn Dương. Ông Dương cho biết chị Nhung và anh Long có đăng ký kết hôn và có thời gian tìm hiểu trước khi kết hôn. Sau khi kết hôn chị Nhung và anh Long ở riêng, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng cuối năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về kinh tế và mọi mặt trong cuộc sống. Từ đầu năm 2019 thì anh Long đã chuyển về gia đình ông sinh sống. Nay anh Long có đơn khởi kiện ly hôn chị thì gia đình đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản làm việc với bà Ngô Thị Lực là mẹ đẻ của chị Nhung thì xác định: Từ tháng 3/2019 anh Long đã chuyển về sống cùng gia đình bố mẹ đẻ ở Dĩnh Kế. Việc anh Long, chị Nhung có mâu thuẫn thế nào thì bà không nắm được.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng các bên không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án. 

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn là anh Hoàng L vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và công nợ chung như nêu trên.

Bị đơn là chị Trần Huyền N trình bày: Nay anh Long vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn chị, chị đồng ý ly hôn. Về con chung: chị giữ nguyên nguyện vọng được nuôi con và yêu cầu anh Long cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị với mức 2.000.000đồng/tháng kể từ tháng 6/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Hoàng L với chị Trần Huyền N.

2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Lâm, sinh ngày 17/02/2015 cho chị Nhung trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Long phải cấp dưỡng nuôi con chùng chị Nhung với mức 2.000.000đồng/tháng kể từ tháng 6/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

3. Về án phí: Anh Long phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của anh Long thì thấy đây là quan hệ “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Long và chị Nhung kết hôn ngày 08/12/2014 trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác nhận là hôn nhân hợp pháp theo Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Quá trình chung sống, qua xác minh tại gia đình hai bên, cũng như theo trình bày của chị Nhung và anh Long thì cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân, không ai còn tình cảm và quan tâm gì đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, chị Nhung không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa, chị Nhung đồng ý ly hôn anh Long. Do vậy, cần áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Hoàng L với chị Trần Huyền N.

[2.2] Về nuôi con chung: Anh Long và chị Nhung có 01 con chung là cháu Hoàng Lâm, sinh ngày 17/02/2015. Cả anh Long và chị Nhung đều có nguyện vọng nuôi con. Tuy nhiên, từ khi vợ chồng ly thân thì con chung ở cùng chị Nhung, cháu Lâm còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ, mặt khác chị Nhung cũng có công việc, thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho con chung. Xét điều kiện nuôi dưỡng của anh Long và chị Nhung là như nhau nhưng để đảm bảo lợi ích của con chung cần giao con chung cho chị Nhung trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nhung yêu cầu anh Long cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đồng/tháng kể từ tháng 6/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét thấy đây là yêu cầu chính đáng để nhằm đảm bảo quyền lọi của con chung nên cần chấp nhận theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Long phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Hoàng L với chị Trần Huyền N.

2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Lâm, sinh ngày 17/02/2015 cho chị Trần Huyền N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Hoàng L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Trần Huyền N mỗi tháng là 2.000.000 đồng, kể từ tháng 6/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, anh Hoàng L không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở anh Hoàng L thực hiện quyền này.

Anh Hoàng L không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Trần Huyền N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Hoàng L.

3. Về án phí:

Anh Hoàng L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn và 300.000 đồng án phí về cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2016/0000315 ngày 20/3/2019. Anh Hoàng L còn phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;