Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 234/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Tổ 1B, khu phố TT1, phường TB, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: Anh Hồ Quang B, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Tổ 1B, khu phố TT1, phường TB, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 4 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị A trình bày:

Chị Nguyễn Thị A và anh Hồ Quang B tìm hiểu và tự nguyện về chung sống với nhau vào năm 2006, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã ĐN, huyện HQ, tỉnh Bình Phước. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau. Anh B ít quan tâm đến gia đình, vợ con và kinh tế gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, không thể hàn gắn, không thể hòa giải. Mỗi lần đi nhậu về, anh B thường chửi mắng chị và không tôn trọng bố mẹ ruột của chị. Anh chị tuy sống chung nhà nhưng đã ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị A thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh B.

Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung tên là Hồ Quang C, sinh ngày 03 tháng 9 năm 2007 và Hồ Quang D, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2012. Ban đầu chị A yêu cầu được nuôi cả hai con, nhưng trong quá trình giải quyết chị thống nhất giải quyết theo nguyện vọng của các con. Cụ thể là chị đồng ý nuôi cháu Hồ Quang D và giao cháu Hồ Quang C cho anh B nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị A không còn yêu cầu nào khác.

Tài liệu, chứng cứ chị A cung cấp: Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn, văn bản thỏa thuận chia tài sản.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Hồ Quang B trình bày:

Anh B thống nhất như phần trình bày của chị A về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn và tình trạng hôn nhân của anh chị. Trong thời gian gần đây anh chị có phát sinh mâu thuẫn nhưng không lớn. Nay chị A yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý vì anh vẫn còn yêu thương vợ và không muốn con cái bị ảnh hưởng. Tuy nhiên nếu chị A vẫn cương quyết xin ly hôn thì anh vẫn chấp nhận nhưng để Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương chứ anh vẫn không đồng ý ly hôn.

Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung tên là Hồ Quang C, sinh ngày 03 tháng 9 năm 2007 và Hồ Quang D, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2012. Trong quá trình giải quyết anh chị đã thống nhất giải quyết theo nguyện vọng của các con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, anh B không còn yêu cầu nào khác.

Anh B không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập: Biên bản xác minh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Xét thấy, mặc dù tại phiên Tòa anh B không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, qua lời trình bày của anh và chị tại phiên tòa phù hợp với lời trình của anh chị trong quá trình thu thập chứng cứ xác định rằng: Nguyên nhân dẫn đến việc chị A có yêu cầu xin ly hôn là do vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn vì tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau. Anh B ít quan tâm đến gia đình, vợ con và kinh tế gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, không thể hàn gắn, không thể hòa giải. Mỗi lần đi nhậu về, anh B thường chửi mắng chị và không tôn trọng bố mẹ ruột của chị. Anh chị tuy sống chung nhà nhưng đã ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Vì vậy, chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A.

Về con chung: Trong quá trình thu thập chứng cứ cũng như tại phiên Tòa, chị A đồng ý nuôi cháu Hồ Quang D và giao cháu Hồ Quang C cho anh B nuôi dưỡng. Về phía anh B có nguyên vọng nuôi cản hai con. Tuy nhiên, tại biên bản lời khai ngày 16 tháng 5 năm 2019 cháu C có nguyện vọng muốn được sống với anh B, cháu D có nguyện vọng được sống với chị A. Vì vậy, đây là thiện chí của các cháu nên cần giao cháu C cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu D cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở và phù hợp vớp pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Bị đơn Hồ Quang B hiện đang cư trú tại phường TB, thành phố Đồng Xoài, Bình Phước nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[1.2] Về mối quan hệ pháp luật: Chị A, anh B chung sống và có đăng ký kết hôn từ năm 2006. Nay chị A yêu cầu ly hôn với anh B. Xét yêu cầu khởi kiện thì đây là vụ án hôn nhân và gia đình, có quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn” theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về phân tích nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị A, anh B tự nguyện chung sống với nhau, có thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Căn cứ vào các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là đúng quy định pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, anh và chị thường xuyên phát sinh mẫu thuẫn nhưng do cả hai đều là cán bộ công chức nên không thể hiện cho người khác biết. Vì vậy khi xác minh tại địa phương không thể hiện mâu thuẫn (BL24). Hiện tại anh chị tuy vẫn sống chung nhà nhưng đã ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Mặc dù trong quá trình thu thập chứng cứ, anh và chị đã được Tòa án tiến hành hòa giải để anh chị hàn gắn, đoàn tụ với nhau nhưng chị A vẫn giữ yêu cầu ly hôn và tại phiên tòa hôm nay chị A vẫn cương quyết xin ly hôn. Tuy nhiên, về phía anh B tại phiên tòa không đồng ý ly hôn, nhưng căn cứ tại bản tự khai ngày 14 tháng 5 năm2019 anh có trình bày “Trong trường hợp vợ tôi quyết định đơn phương ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định. Vấn đề nuôi con xin được nuôi cả hai con, không yêu cầu vợ tôi cấp dưỡng ... đề nghị chia tài sản” (BL19). Tại biên bản lấy lời khai ngày 14 tháng 5 năm 2019 anh B trình bày “Nếu vợ tôi cương quyết xin ly hôn thì tôi cũng chấp nhận nhưng tôi muốn vợ tôi ly hôn đơn phương chứ tôi không ký đồng ý ly hôn ... yêu cầu được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu vợ tôi phải cấp dưỡng nuôi con ... đề nghị chia tài sản chung” (BL20). Tại biên bản lấy lời khai ngày 14 tháng 6 năm 2019 anh B khai “Vợ chồng chúng tôi đã thỏa thuận về vấn đề về tài sản, tôi nhận quản lý, sử dụng căn nhà tại khu phố TT , phường TB. Căn nhà này gần trường học của các con vì vậy tôi vẫn có nguyện vọng được nuôi cả hai con, tuy nhiên vợ tôi cũng có nguyện vọng được nuôi hai con. không phải khó xử cho cả hai bên nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Tôi được biết nguyện vọng của con lớn tên Hồ Quang C muốn được sống với tôi và con nhỏ tên Hồ Quang D muốn được sống với mẹ, vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của con. Trong trường hợp, sau này vợ tôi đi lấy chồng khác mà con tôi không được chăm sóc chu đáo thì tôi sẽ xin thay đổi quyền nuôi con”. Từ những lời khai của anh B cho thấy, mặc dù tại phiên tòa anh không đồng ý ly hôn nhưng qua các bản lời khai, anh đã gián tiếp đồng ý ly hôn. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A là có cơ sở cần chấp chận.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình thu thập chứng cứ cũng như tại phiên Tòa, chị A đồng ý nuôi cháu Hồ Quang D và giao cháu Hồ Quang C cho anh B nuôi dưỡng. Về phía anh B có nguyên vọng nuôi cả hai con. Tuy nhiên, tại biên bản lời khai ngày 16 tháng 5 năm 2019 cháu C có nguyện vọng muốn được sống với anh B, cháu D có nguyện vọng được sống với chị A. Vì vậy, đây là thiện chí của các cháu nên cần giao cháu C cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu D cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở và phù hợp vớp pháp luật.

Các bên không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí đối với tranh chấp hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị A phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài về quan hệ hôn nhân cũng như về con chung là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 8, khoản 1 Điều 9, Điều 51, khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị A được ly hôn với anh Hồ Quang B.

2. Về con chung: Giao con chung tên Hồ Quang C, sinh ngày 05 tháng 7 năm 2007 cho anh Hồ Quang B trự tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Hồ Quang D, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng. Anh và chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con thì người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Án phí: Chị A phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001075 ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Chị A đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Chị A, anh B được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;