Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 86/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 377/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 431/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Quyết T, nơi cư trú: Số 36/64/179 đường L, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị Trần Thị L; nơi cư trú: Số 36/64/179 đường L, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 3 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Phạm Quyết T trình bày:

Anh Phạm Quyết T và chị Trần Thị L lấy nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 11/11/2002 tại Ủy ban nhân dân phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đến nay vợ chồng có 01 con chung.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp và kinh tế gia đình khó khăn. Chính vì nguyên nhân như vậy nên anh T và chị L sống với nhau không hạnh phúc và thường xuyên xảy ra căng thẳng cãi vã nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã được hai bên gia đình và bạn bè khuyên giải nhiều lần nhưng không giảm. Từ năm 2017, anh T và chị L đã sống ly thân, không còn quan tâm trách nhiệm với nhau về mọi mặt. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân hơn 02 năm nay không còn khả năng đoàn tụ, đề nghị Toà án giải quyết cho anh T được ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh T và chị L có 01 con chung là Phạm Thúy Hồng, sinh ngày 25/11/2002. Ly hôn đề nghị Tòa án giao con chung cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên. Việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, anh T và chị L tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh T và chị L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 09/4/2018, bị đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị Trần Thị L nhất trí với lời khai của anh Phạm Quyết T về thời gian, điều kiện kết hôn, con chung và tài sản chung.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu do anh T nghiện rượu thường xuyên gây sự đánh đập vợ con và sống vô trách nhiệm với gia đình. Chính vì nguyên nhân như vậy nên vợ chồng thường xuyên đánh cãi chửi nhau gây mất trật tự xóm phố và nhiều lần công an phường Gia Viên đến giải quyết. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình và địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Thực tế từ giữa năm 2018 vợ chồng đã sống ly thân không quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt. Nay anh T có đơn xin ly hôn, quan điểm của chị L đồng ý ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị L và anh T có 01 con chung là Phạm Thúy Hồng, sinh ngày 25/11/2002. Ly hôn, chị L nhận nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên và không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị L và anh T tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà giải quyết.

Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương và gia đình, kết quả đã thu thập được như sau: Chị T và anh L lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11/11/2002 tại Ủy ban nhân dân phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống anh T chị L có 01 con chung là Phạm Thúy Hồng, sinh ngày 25/11/2002. Từ đầu năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không tôn trọng lẫn nhau thường xuyên đánh cãi chửi nhau gây mất trật tự xóm ngõ và đã có lần công an phường Gia Viên phải vào giải quyết. Địa phương và gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay anh T có đơn xin ly hôn chị L thì đề nghị Tòa án căn cứ vào tình trạng hôn nhân thực tế để giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung và tài sản chung: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay: Anh T giữ nguyên quan điểm như trên và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L vì mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã hơn 01 năm nay, không còn khả năng đoàn tụ. Về con chung: đề nghị Tòa án giao con chung cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên. Việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con tự thỏa thuận, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Anh T và chị L tự thỏa thuận, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Trần Thị L vắng mặt phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc thụ lý vụ án cũng như quá trình xây dựng lập hồ sơ và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự: Phía nguyên đơn đã tuân thủ và thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, phía bị đơn không chấp hành đúng với các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho anh T được ly hôn với chị L và giao con chung cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên; về tài sản chung, anh T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Anh T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

- Về quan hệ hôn nhân:

[1] Anh Phạm Quyết T và chị Trần Thị L lấy nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 11/11/2002 tại Ủy ban nhân dân phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

[2] Quá trình chung sống, đến năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp và kinh tế khó khăn. Anh T và chị L đã sống ly thân hơn 01 năm nay, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt.

[3] Xét cuộc sống chung của anh T và chị L mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần giải quyết cho anh T được ly hôn với chị L là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T đối với chị L.

- Về việc nuôi con:

[4] Anh T và chị L có 01 con chung là Phạm Thúy Hồng, sinh ngày 25/11/2002 . Ly hôn, anh T đề nghị Tòa án giao con chung cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên. Phía chị L cũng xin nhận nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên. Mặt khác, nguyện vọng của cháu Hồng muốn ở với mẹ. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Hồng cho chị L nuôi dưỡng đến khi cháu Hồng đủ 18 tuổi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh T đề nghị anh T và chị L tự thỏa thuận, phía chị L không yêu cầu anh T đóng góp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về việc chia tài sản:

[5] Anh T không yêu cầu Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí:

[6] Anh T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Quyết T được ly hôn với chị Trần Thị L.

2. Về việc nuôi con: Giao con chung Phạm Thúy Hồng, sinh ngày 25/11/2002 cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh T và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Anh Phạm Quyết T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Anh Phạm Quyết T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Anh T đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo biên lai số 0015663 ngày 13/3/2019. Anh Phạm Quyết T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Ngun đơn anh Phạm Quyết T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn chị Trần Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;