TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN
Trong ngày 15/8/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 03 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-DS ngày 24/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị H, sinh năm 1995
ĐKTT và chỗ ở: Bản Pá P T, xã Mường L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, có mặt
2. Bị đơn: Anh Cà Văn T, sinh năm 1995
ĐKTT: Đội 7B, Bản B, xã Noong H, huyện Điện B, tỉnh Điện Biên, vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 28/3/2019, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị Hương trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Cà Văn T lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 07/5/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Mường L, huyện Điện Biên Đ. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T đua đòi ăn chơi dẫn đến nghiện ma túy thường xuyên lấy tài sản của gia đình và trộm cắp của hàng xóm bán lấy tiền tiêu sài, chị đã khuyên bảo nhiều lần song anh T vẫn không sửa được. Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ từ tháng 6 năm 2017. Từ đó không ai quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.
Về quan hệ con chung: Anh chị có 2 con chung: Cháu thứ nhất là Cà Thị Th H sinh ngày 13/11/2012, cháu Thứ 2 là Cà Thị Ánh T sinh ngày 20/01/2015, các cháu hiện đang ở với chị, chị xin nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị.
Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về, đất nông nghiệp: Không có.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án số 126/TB-TLVA ngày 28/3/2019 cho anh T nhưng do anh T đi làm ăn xa nên Tòa án đã giao trực tiếp cho bà Cà Thị O là mẹ đẻ anh T. Hết thời hạn theo thông báo thụ lý song anh T không có văn bản gửi Tòa án nêu quan điểm của mình đối với yêu cầu của chị H. Theo biên bản xác minh tại gia đình anh Cà Văn T, xác minh tại địa phương nơi cư trú thì anh T có đăng ký thường trú tại địa phương song thường xuyên đi làm ăn xa nhà, thời gian về nhà không cố định, mẹ anh T là bà Cà Thị O cho biết: anh T đã biết việc chị H xin ly hôn với anh T do mẹ anh thông báo, anh xin Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 11/6/2019 và mở phiên hòa giải vào ngày 05/7/2019, tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng tại nơi cư trú, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Noong H và tại trụ sở Tòa án theo đúng quy định của pháp luật song anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ, biên bản không tiến hành hòa giải được và đã niêm yết kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật Ngày 24/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/7/2019 và niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, anh T vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định.
Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai, anh T vắng mặt lần 2 không có lý do.
Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị H được ly hôn với anh Cà Văn T theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
Về con chung: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao 2 cháu: Cà Thị Thu H sinh ngày 13/11/2012 và Cà Thị Ánh T sinh ngày 20/01/2015 cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí DSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.
{2}. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị H và anh Cà Văn T kết hôn ngày 07/5/2015 vì vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
{3} Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 24/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.
{4} Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 07/5/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Mường L, huyện Điện Biên Đ. Hôn nhân là tự nguyện, không ai bị ép buộc hoặc lừa dối nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống được một thời gian nguyên nhân do anh T vi phạm nghĩa vụ của người chồng lâm vào tình trạng nghiện ma túy, trộm cắp tài sản, phá tán tài sản của gia đình mặc dù chị H đã khuyên bảo song anh T vẫn chứng nào tật ấy, chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống tại Mường L, Điện Biên Đ từ tháng 6 năm 2017, từ đó không ai quan tâm đến ai, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân, xác minh công việc, nơi cư trú của anh T và tống đạt các văn bản cho mẹ anh T, niêm yết công khai các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp và hòa giải cho anh T song anh T vẫn không có mặt tại Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự mặc dù anh Toản phải đi làm ăn nhưng đã biết quá trình giải quyết vụ án. Anh T đã không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị H thể hiện trong đơn khởi kiện, vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải ngày 11/6/2019 và phiên hòa giải ngày 05/7/2019, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật, vi phạm các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh T đã tự từ bỏ các các quyền và nghĩa vụ của mình. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Theo các biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 10/6/2019 (BL 44, 45,46) thể hiện về nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T nghiện ma túy theo đúng như trình bày của chị H, chị H đã ly thân với Anh T từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay, không sinh sống cùng anh T nữa HĐXX xét thấy: Mặc dù anh T không có mặt tại Tòa án để thể hiện ý kiến quan điểm của mình về quan hệ hôn nhân, song qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn do anh Toản vi phạm nghiêm trọng các quyền và nghĩa vụ của người chồng lâm vào tình trạng nghiện ma túy, không chăm lo cuộc sống gia đình khiến cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị H xin ly hôn với anh T cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
{5} Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Cà Thị Thu H sinh ngày 13/11/2012 và Cà Thị Ánh T sinh ngày 20/01/2015, quan điểm chị H xin ly hôn xin được nuôi cả cháu đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng chị làm ruộng ngoài ra đi làm thuê có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng cháu thể hiện tại biên bản xác minh của Tòa án hồi 15 giờ ngày 10/6/2019 tại Bản Pá Pao T, xã Mường L, huyện Điện Biên Đông có xác nhận của chính quyền địa phương. Quá trình giải quyết vụ án, cháu H đã có bản tự khai xin được ở với mẹ.
HĐXX xét thấy: Qua quá trình giải quyết vụ án, anh T đã không lên Tòa án thể hiện quan điểm của mình nên Tòa án không có căn cứ để xem xét nguyện vọng của anh T về việc nuôi con. Qua xác minh cho thấy do công việc làm ăn của anh T thường xuyên vắng nhà, lại nghiện ma túy nên không thể đủ điều kiện sóc nuôi dưỡng, giáo dục con chung và các điều kiện phát triển mọi mặt cho con. HĐXX căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của các con chưa thành niên, nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng của chị H, căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị H giao 2 cháu: Cà Thị Thu H sinh ngày 13/11/2012 và Cà Thị Ánh T sinh ngày 20/01/2015 cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận sự tự nguyện không yêu cầu anh Toản cấp dưỡng nuôi con.
{6}. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về, đất nông nghiệp: Không có.
{7}Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí DSST.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Khoản 1 Điều 56, khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Nguyên đơn chị Lò Thị H được ly hôn với bị đơn anh Cà Văn T.
2. Về con chung: Giao 2 cháu: Cà Thị Thu H sinh ngày 13/11/2012 và Cà Thị Ánh T sinh ngày 20/01/2015 cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về, đất nông nghiệp: Không có.
4. Về án phí DSST: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ Luật TTDS và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí DSST được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0003121 ngày 28/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, chị H đã nộp đủ án phí DSST.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 15/8/2019; Anh Cà Văn T được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.
Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 32/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về