Bản án 32/2019/DS-PT ngày 25/03/2019 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2019/DS-PT NGÀY 25/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 21 và 25 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 53/2019/TLPT-DS ngày 22 tháng 01 năm 2019, về việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2018/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 57/2019/QĐ-PT ngày 19 tháng 02 năm 2019, giữa:

- Nguyên đơn: Ông Hoàng Văn P, sinh năm 1975; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu phố H, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 16-5-2018).

- Bị đơn: Bà Đinh Thị T, sinh năm 1959; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Đặng Trung K, sinh năm 1959; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của ông Đặng Trung K: Bà Đinh Thị T, sinh năm 1959; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 15-5-2018).

+ Bà Trần Thị N, sinh năm 1979; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Đinh Thị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Hoàng Văn P trình bày:

Ngày 18-5-2000, ông Hoàng Văn P nhận chuyển nhượng của bà Đinh Thị T diện tích 100m2 loi đất sản xuất phụ (đất nông nghiệp) thuộc thửa 36, 37 tờ bản đồ số 01 tọa lạc tại khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương, đất đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 277.QSDĐ/CQ-TTDA ngày 10-4-1999 cho bà Đinh Thị T, giá trị chuyển nhượng là 20.000.000 đồng, nguyên đơn đã giao đủ tiền cho bà T và đã nhận đất xây dựng nhà ở ổn định từ năm 2000 đến nay. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân thị trấn D (nay là phường D) xác nhận. Ông P nhiều lần yêu cầu bà T thực hiện các thủ tục tách thửa nhưng bà T không thực hiện. Hiện nay theo đo đạc thực tế diện tích đất là 98,5m2 so với hợp đồng chuyển nhượng thiếu 1,5m2, ông P không yêu cầu bị đơn bồi thường giá trị phần đất bị thiếu. Đối với các tài sản gắn liền trên đất ông P không tranh chấp.

Ông P yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 48.CN ngày 18/5/2000 giữa ông P với bà Đinh Thị T.

+ Công nhận diện tích đất theo đo đạc thực tế là 98,5m2 ta lạc tại khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông P.

Bị đơn bà Đinh Thị T đồng thời là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đặng Trung K trình bày:

Thng nhất với phần trình bày của ông P về việc hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18-5-2000. Hai bên đã thực hiện giao tiền, nhận đất xây dựng nhà ở ổn định. Việc chưa hoàn tất thủ tục tách thửa là do trong hợp đồng hai bên thỏa thuận các thủ tục tách thửa do ông P phải tự thực hiện. Khoảng năm 2003-2006, bà T đưa giấy chứng nhận cho ông P để làm thủ tục tách thửa nhưng không làm mà trả lại sổ đỏ. Đến năm 2011, bà T làm tờ trình gửi Ủy ban nhân dân thị xã D xin tách thửa thì được trả lời do đất phân lô nên không thực hiện tách thửa được. Hiện nay, nguyên đơn vẫn sinh sống bình thường trên phần đất đã nhận chuyển nhượng.

Theo mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý do Tòa án yêu cầu đo thì phần đất hiện nay của ông P là 98,5m2, so với hợp đồng chuyển nhượng còn thiếu 1,5m2. Khi chuyển nhượng hai bên có thỏa thuận bằng lời nói bà T chừa đường đi 1,5m còn lại bên nhận chuyển nhượng phải tự chừa đường đi trong phần đất của mình. Hiện nay đường đi có chiều rộng 4m, đất của ông P có chiều ngang là 5m nên bà có ý kiến ông P phải trả cho bà diện tích dư ra của đường đi là 12,5m2, cấn trừ phần đất bị thiếu trong hợp đồng thì ông P trả diện tích đất 11m2 giá 30.000.000 đồng/m2 tương đương 330.000.000 đồng. Ông P trả cho bà T 01 lần thì bà T đồng ý với các yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T cho rằng thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng chồng bà là ông Đặng Trung K không biết việc chuyển nhượng đến năm 2008, ông K có đến Ủy ban nhân dân thị trấn D trình bày nhưng chỉ bằng lời nói không có văn bản chứng minh. Hợp đồng không có sự đồng ý của ông K chỉ có 01 mình bà ký nên không có hiệu lực. Gần đây, bà T có nghe nói hợp đồng chuyển nhượng trên ông P đã chuyển nhượng lại cho ông Mai Xuân Khanh nhưng không có chứng cứ chứng minh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị N trình bày: Bà là vợ của ông Hoàng Văn P, bà N thống nhất trình bày và yêu cầu của ông P.

Tại phiên tòa sơ thẩm người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn không có hiệu lực bởi: Hợp đồng bị vi phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai năm 1993 và hướng dẫn của Nghị định số 79/2001 mới dừng lại ở việc nộp hồ sơ, gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất, chưa thực hiện đủ 05 bước trình tự theo quy định; đồng thời hợp đồng chuyển nhượng bị vi phạm về chủ thể do diện tích đất chuyển nhượng nằm trong tổng thể diện tích đất được Uỷ ban nhân dân huyện T cấp cho bà Đinh Thị T là tài sản chung của bà T và ông K, tuy nhiên trong hợp đồng chỉ có bà T ký còn ông K không biết việc chuyển nhượng. Về diện tích con đường vẫn thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T, bà T chỉ chừa 1,5m làm đường đi còn lại các hộ dân phải tự chừa tuy nhiên nay con đường có bề rộng là 4m là các hộ dân đã tự ý lấn chiếm đất của bị đơn nên đề nghị Tòa án xem xét áp dụng khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai năm 1993, Nghị định số 79/2001, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Nghị quyết 01/1988 để bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời yêu cầu Tòa án xem xét ngừng phiên tòa để định giá lại với mức giá phù hợp tạo điều kiện cho hai bên thỏa thuận giải quyết vụ án.

Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đối với đất và các tài sản gắn liền với đất ngày 26-7-2018 Hội đồng định giá xác định giá tài sản như sau:

- Diện tích đất cây lâu năm trị giá 1.280.500.000 đồng.

- Tài sản gắn liền trên đất đương sự không tranh chấp.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2018/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn P đối với bị đơn bà Đinh Thị T về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 48.CN ngày 18-5-2000 giữa ông Hoàng Văn P với bà Đinh Thị T.

Ông Hoàng Văn P được quyền sử dụng diện tích đất 98,5m2 (loại đất cây lâu năm) thuộc thửa 1060 tờ bản đồ 1AB.7 tọa lạc tại khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương (vị trí thửa đất theo mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã D phát hành ngày 03-7-2018).

Ông Hoàng Văn P có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký đối với quyền sử dụng đất được sử dụng theo quy định của Luật Đất đai.

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16-11-2018, bị đơn bà Đinh Thị T kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn thay đổi kháng cáo (yêu cầu nguyên đơn bồi hoàn 11m2 đất thỏa thuận làm đường đi số tiền 330.000.000 đồng); các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Kháng cáo của đương sự đúng thời hạn. Tại cấp phúc thẩm những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng số 48.CN ngày 18-5-2000 giữa ông Hoàng Văn P với bà Đinh Thị T đối với diện tích đất 98,5m2 (loại đất cây lâu năm) thuộc thửa 1060 tờ bản đồ 1AB.7 tọa lạc tại khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Bị đơn thừa nhận việc ký hợp đồng, diện tích chuyển nhượng và số tiền thanh toán. Tuy nhiên, bị đơn kháng cáo cho rằng khi chuyển nhượng đất các bên có thỏa thuận miệng phía nguyên đơn phải chừa ra 1,5m để làm đường đi nhưng không được nguyên đơn thừa nhận và bị đơn cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Tuy nhiên, khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa nguyên đơn, bị đơn nhưng lại không kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã D thu hồi và điều chỉnh diện tích đất trong giấy chứng nhận cấp cho bị đơn theo hiện trạng là tuyên chưa phù hợp. Kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa một phần bản án sơ thẩm về cách tuyên.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Đinh Thị T được Ủy ban nhân dân huyện T (nay là thị xã D), tỉnh Bình Dương cấp quyền sử dụng đất diện tích 1.963m2 (trong đó có 300m2 đất làm nhà ở) thuộc thửa 36, 37, tờ bản đồ 01, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 277.QSDĐ ngày 10-4-1999.

Từ năm 2000, bà T phân thửa đất 36, 37 thành nhiều lô đất chuyển nhượng cho người dân. Trong đó bà T chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn P diện tích đất 100m2 (đất nông nghiệp), không ghi cụ thể loại đất, thuộc một phần thửa 37, tờ bản đồ 01, khu phố T, phường D, thị xã D, giá trị đất chuyển nhượng 20.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân thị trấn D chứng thực ngày 18-5-2000; ông P đã giao đủ tiền cho bà T, bà T giao đất cho ông P, quản lý sử dụng và xây dựng nhà ở từ năm 2000 cho đến nay. Ông P chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do bà T không giao giấy tờ liên quan để lập hồ sơ. Do đó, ông P khởi kiện bà T.

Nhận thấy, tại mảnh trích lục địa chính lập ngày 03-7-2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã D thể hiện phần đất bà T chuyển nhượng cho ông P theo đo đạc thực tế có diện tích 98,5m2 (đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa 1060 (thửa cũ 37), tờ bản đồ 34(1AB.7), khu phố T, phường D, tỉnh Bình Dương (bút lục 56).

Bà T cho rằng, bà T chưa làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho ông P là do trong phần đất chuyển nhượng cho ông P hiện nay có diện tích đất thỏa thuận ông P chừa làm đường đi nhưng nay sử dụng chưa trả tiền cho bà T.

Tại Văn bản số 873/UBND-NC ngày 27-3-2015 của Ủy ban nhân dân thị xã D trả lời đơn kiến nghị của công dân trong đó có ông P; Ủy ban nhân dân thị xã D thống nhất giải quyết cho các hộ dân (trong đó có ông P) được tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng của bà T.

Nhận thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T với ông P được Ủy ban nhân dân thị xã D chứng thực là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 3, khoản 3 Điều 73 Luật Đất đai năm 1993. Bà T đã nhận đủ tiền chuyển nhượng và đã giao đất cho ông P làm nhà ở từ năm 2000 cho đến nay. Phần đất ông P sử dụng ít hơn diện tích đất nhận chuyển nhượng, ông P tự nguyện không yêu cầu bà T bồi thường giá trị đất bị thiếu, Tòa án ghi nhận.

Đi với việc bà T yêu cầu bồi T giá trị đất làm đường đi 1,5m x 05m, Tòa án nhận thấy bà T không cung cấp được văn bản thỏa thuận giữa bà T với ông P về việc ông P phải chừa diện tích đất 1,5m x 05m làm đường đi, ông P không thừa nhận sự việc này nên không có cơ sở chấp nhận (đồng thời các yêu cầu này của bà T đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải thích về yêu cầu phản tố nhưng bà T không thực hiện).

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T không cung cấp được chứng cứ để chứng minh kháng cáo là có căn cứ. Bản án sơ thẩm xét xử đúng pháp luật. Tuy nhiên, diện tích đất 98,5m2 thuc thửa 1060 (thửa cũ 37), tờ bản đồ 34(1AB.7), khu phố T, phường D, tỉnh Bình Dương (bút lục 56) nay vẫn thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T. Do đó, sửa phần tuyên án, kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã D thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T để điều chỉnh cho phù hợp với việc sử dụng đất của các bên.

Đi với diện tích đất thổ cư, tại phiên tòa phúc thẩm bà T xác định chỉ chuyển nhượng cho ông P đất nông nghiệp, không có đất thổ cư. Phần đất thổ cư đề nghị Tòa án không giải quyết là phù hợp pháp luật (quyền tự định đoạt).

Bà T cho rằng, diện tích đất 100m2 (đo thực tế 98,5m2) là tài sản chung vợ chồng bà T và ông Đặng Trung K, thời điểm bà T chuyển nhượng đất cho ông P thì ông K không biết. Tuy nhiên tại biên bản lấy lời khai của bà T lập ngày 21-02- 2018, bà T thừa nhận, khi chuyển nhượng đất thì bà T đã báo cho ông K biết (vì lúc đó ông K đang đi bộ đội). Như vậy, ông K đã biết việc bà T chuyển nhượng đất nhưng không khiếu nại, tranh chấp xem như là sự thừa nhận. Trường hợp ông K có tranh chấp tài sản chung với bà T về giá trị phần đất chuyển nhượng cho ông P nêu trên thì được giải quyết tại vụ án khác.

[3] Án phí phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu.

[4] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là có căn cứ một phần.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, 313 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đinh Thị T.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 115/2018/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương như sau:

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn P đối với bị đơn bà Đinh Thị T về việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

2.2. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 48.CN ngày 18-5-2000 giữa ông Hoàng Văn P với bà Đinh Thị T được Ủy ban nhân dân thị trấn D (nay là thị xã D) chứng thực ngày 18-5-2000.

Ông Hoàng Văn P được quyền sử dụng diện tích đất 98,5m2 (loại đất cây lâu năm) thuộc thửa 1060, tờ bản đồ 34(1AB.7), tọa lạc tại khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương (vị trí thửa đất theo mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã D phát hành ngày 03-7- 2018).

Ông Hoàng Văn P có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký đối với quyền sử dụng đất được sử dụng theo quy định của Luật Đất đai.

Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã D thu hồi, điều chỉnh biến động đất đai đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 277.QSDĐ cấp ngày 10-4-1999 cho bà Đinh Thị T phù hợp với bản án này.

2.3. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn chịu 2.422.000 đồng (hai triệu bốn trăm hai mươi hai nghìn đồng).

2.4. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đinh Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông Hoàng Văn P 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0019352 ngày 03-5-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

3. Án phí phúc thẩm: Bà Đinh Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0020413 ngày 19-11-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1098
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2019/DS-PT ngày 25/03/2019 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu:32/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;