Bản án 32/2018/HS-ST ngày 26/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 32/2018/HS-ST NGÀY 26/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2018/HS-ST ngày 26 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Nguyễn Trung H, sinh năm 1987, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi cư trú: Tổ X, khu phố Y, thị trấn Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; cha: Phạm Đình C (đã chết) và mẹ Nguyễn Thị S (đã chết); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày 30/10/2017 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Bị hại

1. Ông Nguyễn Đình K, sinh năm 1972; trú tại: Ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt);

2. Ông Đào Trọng T, sinh năm 1960; trú tại: Ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Nguyễn Trung H đã cùng đồng bọn thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ 1: Rạng sáng 01/8/2017 Phạm Nguyễn Trung H, Hà Văn T, Nguyễn Trọng T1, Trần H1 sử dụng ma túy xong, H rủ T, T1, H1 đi trộm cắp tài sản để mua ma túy sử dụng, cả bọn đồng ý. Đến 04 giờ 00 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô BKS: 36R2 - 1694 chở H, H1 điều khiển xe mô tô BKS: 71K1 - 5235 chở T1 đi đến khu phố X, thị trấn Y, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. T và H đi vào khu vực đông dân cư, tìm tài sản lấy trộm, còn T1 và H1 đứng bên ngoài canh gác. H và T đi đến ngôi Z, tỉnh Đồng Nai làm chủ thầu xây dựng thì thấy tài sản, công cụ, dụng cụ để ở sân không có người trong coi. T và H đến lấy trộm chiếc máy trộn bê tông rồi kéo ra chỗ H1 và T1 đang đứng đợi. Sau đó, cả bọn kéo về nhà của T ở ấp X, xã Y, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cất giấu thì bị Công an xã X, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát hiện. Quá trình điều tra, H khai nhận hành vi trộm cắp máy trộn bê tông như đã nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 130/KL ngày 08/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Tân Thành kết luận: Chiếc máy trộn bê tông có dung tích 02 tấc (1/5m3), không có mô tơ điện trị giá 4.850.000đ (bốn triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Vụ thứ 2: Đến khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/10/2017 Phạm Nguyễn Trung H điều khiển xe máy BKS: 72K1 - 16.24 đi tìm tài sản sơ hở trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài và sử dụng ma túy. Khi đi qua khu vực mỏ đá ở ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhìn thấy chiếc xe cuốc của ông Đào Trọng T, sinh năm: 1960, HKTT: Ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đậu trong bãi đá không có người trông coi. H đi lại mở nắp thùng, bẻ cọng dây đồng nối với bình ắc quy rồi lấy trộm hai bình ắc quy hiệu Đồng Nai bỏ lên xe máy chở đi. Khi H vừa bỏ bình ắc quy lên xe thì nhìn thấy ông T chạy xe ô tô đến, H liền điều khiển xe bỏ chạy về phía đồi núi, khi vào phía trong núi hết đường đi nên H vứt lại xe máy và trốn thoát. Đến 14 giờ cùng ngày, H đến công an xã X, huyện Y đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp hai chiếc bình ắc quy như đã nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 181/KL ngày 01/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Tân Thành kết luận: Hai chiếc bình ắc quy hiệu Đồng Nai, loại N150 (12V-150A), tổng trị giá: 5.731.040đ (năm triệu bảy trăm ba mươi mốt nghìn không trăm bốn mươi đồng).

Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Thành đã thu hồi và trả lại hai chiếc bình ắc quy hiệu Đồng Nai, loại N150 (12V-150A) cho ông Đào Trọng T theo quyết định xử lý vật chứng số: 88/QĐ ngày 04/10/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Đình K đã nhận lại chiếc máy trộn bê tông; ông Đào Trọng T đã nhận lại hai bình ắc quy và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản án số: 144/2017/HSST ngày 06/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành tuyên phạt Hà Văn T 1 năm 3 tháng tù có thời hạn, Nguyễn Trọng T1 9 tháng tù có thời hạn, Trần H1 9 tháng tù có thời hạn về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 22/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành đã truy tố Phạm Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s, r khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Trung H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù; tịch thu sung công quỹ nhà nước chiếc xe mô tô BKS 72K1-11624.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Nguyễn Trung H không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh, không oan; bị cáo H nói lời sau cùng: xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/10/2017, tại ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Phạm Nguyễn Trung H đã lợi dụng sơ hở của bị hại, đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Đào Trọng T là hai bình ắc quy hiệu Đồng Nai, trị giá 5.731.040 đồng.

Sau khi đầu thú và tại cơ quan công an, Phạm Nguyễn Trung H còn khai nhận thêm hành vi phạm tội trước đó, cụ thể khoảng 04 giờ ngày 01/8/2017, tại khu phố X,thị trấn Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Phạm Nguyễn Trung H cùng với các đối tượng Hà Anh T, Nguyễn Trọng T1, Trần H1 đã lợi dụng sơ hở của bị hại, đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Đình K là chiếc máy trộn bê tông có dung tích 02 tấc (1/5m3) trị giá: 4.850.000 đồng.

Các hành vi trên của bị cáo H thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

[3] Áp dụng Điều luật có lợi cho bị cáo H: Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất là 20 năm là nhẹ hơn so với Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (quy định mức hình phạt cao nhất là chung thân); do vậy căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 Ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 để xét xử bị cáo Phạm Nguyễn Trung H.

[4] Xét tính đồng phạm và vai trò của bị cáo trong vụ án ngày 01/8/2017 thì thấy:

Bị cáo H và đồng bọn phạm tội do bộc phát, không có sự phân công, cấu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn; bị cáo là người rủ rê các bị cáo khác thực hiện tội phạm, là người thực hành.

[5] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo gây ra thì thấy: Bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, liều lĩnh và do tham lam tư lợi. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về tính tiết tăng nặng: Bị cáo H đã tham gia 02 vụ nên áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

[7] Về tính tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tự khai nhận hành vi phạm tội trước đó (người phạm tội tự thú) và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên áp dụng điểm g, o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô BKS 72K1-116.24 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, không rõ nguồn gốc nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[10] Về án phí: Bị cáo Phạm Nguyễn Trung H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng;

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm g, o, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt: Phạm Nguyễn Trung H 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 10 năm 2017.

2. Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước chiếc xe mô tô BKS 72K1-116.24. (Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thành quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 19 ngày 05/02/2018).

3. Án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Bị cáo Phạm Nguyễn Trung H phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2018/HS-ST ngày 26/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;