Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 14/9/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2018/TLST-HNGĐ ngày 05/4/2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/8/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị A, sinh năm 1985 (có mặt).

Địa chỉ: Số A, đường H, khóm M, phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Trần Minh M, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Số B, đường Đ, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Địa chỉ tạm trú: Số E, đường L, khóm C, phường D, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2018, trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị A và ông Trần Minh M kết hôn với nhau vào năm 2008, hôn nhân của ông bà là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24/9/2008. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2013 thì bà A và ông M bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tính tình không còn phù hợp, ông M chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác.

Nay bà A không còn tình cảm với ông M nữa, cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà A yêu cầu ly hôn với ông M.

- Về con chung: Bà A và ông M có hai con chung là cháu Trần Quốc M1, sinh ngày 23/01/2010 và cháu Trần Thị Ngọc Q, sinh ngày 04/11/2013. Sau khi ly hôn, bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu Trần Quốc M1, sinh ngày 23/01/2010 và cháu Trần Thị Ngọc Q, sinh ngày 04/11/2013 đến khi cháu M1 và Q đủ 18 tuổi. Bà A không yêu cầu ông M cấp dưỡng cho cháu M1 và cháu Q.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với bị đơn là ông Trần Minh M: Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo cho ông M biết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông M không có văn bản trả lời cho Tòa án biết. Đồng thời bị đơn ông M cũng không cung cấp chứng cứ và không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa theo Giấy triệu tập của Tòa án.

Ý kiến của kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn là ông Trần Minh M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị A và ông Trần Minh M xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống do ông, bà không hợp nhau về tính tình, do bất đồng quan điểm sống, bà A cho rằng ông M chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác. Tại biên bản xác minh ngày 14/8/2018 bà Trần Thị T là cô ruột của ông M trình bày bà T được biết trong quá trình chung sống vợ chồng bà A, ông M cũng có phát sinh mâu thuẫn đồng thời hiện nay ông M đang chung sống với người vợ cũ của ông M là bà Quách Kim A1, thời gian chung sống của ông M và bà Kim A1 đến nay khoảng 03 năm. Hội đồng xét xử thấy rằng lời khai của bà T hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của bà A. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa ông bà đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà A cho bà A được ly hôn với ông M.

- Về con chung: Bà Avà ông M có hai con chung là cháu Trần Quốc M1, sinh ngày 23/01/2010 và cháu Trần Thị Ngọc Q, sinh ngày 04/11/2013. Hiện nay cháu M1 và cháu Q đang sống chung với bà A. Sau khi ly hôn, bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M1 và cháu Q đến khi cháu M1 và cháu Q đủ 18 tuổi. Tại biên bản lấy ý kiến ngày 07/8/2018 thì cháu Trần Quốc M1 cũng thừa nhận hiện nay đang sống chung với mẹ là bà A, trường hợp cha mẹ của cháu ly hôn thì cháu M1 có nguyện vọng sống chung với mẹ ruột của cháu M1 là bà A. Hội đồng xét xử xét thấy, từ trước đến nay cháu M1 và cháu Q sống chung với bà A, cuộc sống của hai cháu đang ổn định. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà A, giao cháu M1 và cháu Q cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu M1 và cháu Q đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà A không yêu cầu ông M cấp dưỡng cho cháu M1 và cháu Q.

Ông Trần Minh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung tên cháu Trần Quốc M1 và cháu Trần Thị Ngọc Q mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Bà Trần Thị A phải chịu án phí ly hôn số tiền là 300.000 đồng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Từ những phân tích, nhận định trên nên đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 39 của Bộ luật dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị A được ly hôn với ông Trần Minh M.

2. Về con chung: Giao cho bà Trần Thị A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Quốc M1, sinh ngày 23/01/2010 và cháu Trần Thị Ngọc Q, sinh ngày 04/11/2013 cho đến khi cháu M1 và cháu Q đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị A không yêu cầu ông Trần Minh M cấp dưỡng cho cháu Trần Quốc M1 và cháu Trần Thị Ngọc Q.

Ông Trần Minh M có quyền và nghĩa vụ thăm nom cháu Trần Quốc M1 và cháu Trần Thị Ngọc Q mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung: Bà Trần Thị A Về nợ chung: Bà Trần Thị A không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Bà Trần Thị A phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000325 ngày 28/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Bà A đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:32/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;