TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ NGÀY 04/06/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 04 tháng 6 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/2018/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1966; đăng ký thường trú tại: Số 69/78/430 TN, phường NN, Quận L C, thành phố Hải Phòng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Trung V, sinh năm 1961; đăng ký thường trú tại: Số 16/19 CĐ, phường DH, quận LC, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 8/19 CH, phường DH, quận LC, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, các lời khai của bà Nguyễn Thị M có trong hồ sơ thể hiện:
Bà Nguyễn Thị M và ông Nguyễn Trung V xây dựng gia đình, chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 1991 nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Quá trình chung sống, thời gian đầu hai người hòa thuận hạnh phúc, đến năm 1992 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn trầm trọng từ năm 1995 đến nay hai bên đã sống ly thân mỗi người một nơi, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay bà M đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà và ông Nguyễn Trung V.
Về con chung: Bà M và ông V có 01 con chung tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1992. Nay con chung đã thành niên, bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Bà M trình bày hai bên không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Trung V vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án, tiến hành triệu tập ông V và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông, nhưng ông không đến Tòa án làm việc. Điều đó cho thấy ông V đã tự từ bỏ quyền cũng như không thực hiện nghĩa vụ của mình trước pháp luật, không còn quan tâm đến cuộc sống gia đình với bà M.
Tại biên bản xác minh tại nơi cư trú và biên bản làm việc với đại diện gia đình là con chung Nguyễn Thị Hằng thể hiện: Cuộc sống chung giữa bà M và ông V đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, không tìm được tiếng nói chung. Hiện nay hai bên đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Hai người đều không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và hiện không còn tồn tại quan hệ chung sống.
Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng, bị đơn không chấp hành các quy định về pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Bà M và ông V chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, đến nay đã không còn chung sống. Bởi vậy, bà M có đơn yêu cầu tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà với ông V là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 14; khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Bà M và ông V có 01 con chung là Nguyễn Thị Hằng sinh năm 1992 đã trưởng thành nên không xem xét.
Về tài sản chung: Bà M không có yêu cầu nên không xem xét.
Về án phí: Bà M phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:
- Về tố tụng:
[1]. Theo đơn khởi kiện được xác nhận tại nơi cư trú thể hiện: Ông Nguyễn Trung V, sinh năm 1961; đăng ký thường trú tại: Số 16/19 CĐ, phường DH, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 8/19 CH, phường DH, quận L C, thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M và bị đơn là ông Nguyễn Trung V thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
[2]. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà M có yêu cầu không hòa giải về mặt con chung, tài sản chung, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại Tòa án nên không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.
[3]. Tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn là ông Nguyễn Trung V vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai. Bởi vậy, căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.
- Về quan hệ hôn nhân:
[4]. Bà Nguyễn Thị M và ông Nguyễn Trung V chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, mà không có đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quá trình chung sống: Bà M và ông V nảy sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, không tìm được tiếng nói chung. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Bởi vậy, bà M có đơn yêu cầu tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà với ông V là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 14; khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về con chung:
[5]. Bà M và ông V có hai con chung tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1992. Con chung đến nay đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về tài sản chung:
[6]. Bà Nguyễn Thị M trình bày hai bên không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[7]. Về án phí: Bà M phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Không công nhận bà Nguyễn Thị M và ông Nguyễn Trung V là vợ chồng.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà M đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005140 ngày 21 tháng 3 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 32/2018/HNGĐ ngày 04/06/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng
Số hiệu: | 32/2018/HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về