Bản án 32/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH - HÀ TĨNH

BẢN ÁN 32/2017/HSST NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 8 năm 2017 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thị xã Kỳ Anh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2017/TLST-HS ngày 03/04/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2017/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần H -  Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 12 tháng 3 năm 1986; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm 7, Thôn C, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Trần V - Sinh năm 1960. Con bà: Phạm T - Sinh năm 1962. Cả hai đều đang sinh sống tại Thôn C, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; Anh chị em ruột: có 04 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Trần H; Sinh năm: 1986; Con: 03 đứa. Lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/04/2008, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt 09tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tại bản án số 05/2008/HSST. Đã chấp hành xong phần hình phạt và án phí HSST; Ngày 27/02/2012, bị  Tòa  án  nhân  dân huyện  B, tỉnh  Hà Nam xử phạt 15  tháng  tù  tại  bản  án  số 13/2012/HSST về tội “Đánh bạc”. Đã chấp hành xong hình phạt, hình phạt bổ sung và án phí HSST. Ngày 15/3/2013 trở về địa phương, hiện đã được xóa án tích; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/01/2017 đến ngày 24/02/2017 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh(Có mặt).

* Người bị hại: Chị Lê H – Sinh năm: 1996; Địa chỉ: Xã Kỳ H, Huyện K, tỉnh Hà Tĩnh(Vắng mặt).

* Người làm chứng:

1.Anh Nguyễn Đức P - Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Xã Kỳ T, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Tuyết D - Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Xã Kỳ C, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt).

3. Anh Lê Văn N - Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Phường S, thị Xã K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 23/01/2017, Trần H (Sinh năm: 1986, trú tại xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam) đi bộ từ phòng trọ 104 của Nhà nghỉ 999 thuộc phường Sông Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh vào khu vực Chợ K thuộc địa phận Tổ dân phố Hưng Thịnh, phường Sông Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xem bán đồ tết. Khi đến nơi, H đi xung quanh khu vực chợ xem hàng được một lúc, rồi tiếp tục đi vào khu vực đình chợ. Khi đi tới quầy bán giày dép ở đình chợ, H nhìn thấy chị Lê Thị H (Sinh năm 1996, trú tại xã H, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) đang cúi khom người để thử giày. Lúc này, Trần H thấy ở túi áo khoác ngoài của chị Lê Thị H có một chiếc ví màu đen, nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H quan sát xung quanh thấy không có ai để ý tới mình, nên H đi ngang qua người chị Lê Thị H dùng tay phải rút chiếc ví ra khỏi túi áo khoác của chị Lê Thị H rồi bỏ vào túi quần bên phải của mình. Sau khi lấy được tài sản H tiếp tục đi xem hàng tết, khi H đi được khoảng 20 mét thì nghe tiếng chị Lê Thị H truy hô bị mất tài sản và nhờ người dân đuổi bắt. Biết hành vi của mình đã bị phát hiện nên H bỏ chạy ra khỏi khu vực chợ theo hướng cổng phụ để lên đường Quốc lộ 1A. Trên đường chạy, H móc chiếc ví từ túi quần của mình ra lấy toàn bộ số tiền có trong ví rồi vứt chiếc ví lại dọc đường. Khi chạy gần đến Quốc lộ 1A thì H bị người dân đuổi kịp và bắt giữ cùng với tang vật và đồng thời chuyển giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh giải quyết.

Số tài sản mà Trần Văn H chiếm đoạt được xác định chủ sở hữu là của chị Lê Thị H (Sinh năm 1996, hộ khẩu thường trú ở xã K, huyện K, Hà Tĩnh), gồm 01 ví da đen bên trong có 4.345.500 đồng (Bốn triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn năm trăm đồng).

Theo biên bản kiểm tra vật chứng ngày 24/01/2017 tại Chi nhánh ngân hàng VPBank Thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xác định số tiền 4.345.500 đồng (Bốn triệu ba trăm bốn mươi lăm ngàn năm trăm đồng) mà Trần H trộm cắp là tiền thật do ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và đang lưu hành trên thị trường.

Tại bản Cáo trạng số 20/CTr - KSĐT ngày 28/03/2017 Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Tĩnh Hà Tĩnh đã truy tố: Trần H về tội“Trộm cắp tài sản” được quy định tại  Khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và nhất trí với quyết định truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Xử phạt: Trần H mức án từ 6 - 9 tháng tù.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và rất hối hận về hành vi mà bị cáo đã gây ra, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để sớm trở về đoàn tụ gia đình tìm công việc lương thiện làm ăn nuôi dạy con cái.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Kỳ Anh. Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp về thời gian, địa điểm, tang vật chứng thu hồi và các tài liệu có tại hồ sơ nên đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 23/01/2017, tại Chợ K thuộc địa phận Tổ dân phố H, phường S, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, Trần H đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm của chị Lê Thị H số tiền 4.345.500 đồng (Bốn triệu ba trăm bốn mươi lăm ngàn năm trăm đồng). Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, H theo hướng cổng phụ của Chợ Ky chạy lên đường Quốc lộ 1A để lẩn trốn thì bị người dân đuổi kịp và bắt giữ cùng tang vật, đồng thời chuyển giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh giải quyết.

Với hành vi nêu trên, nên Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã truy tố và đưa ra xét xử bị cáo Trần H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không có gì oan sai.

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là ít nghiêm trọng. Lỗi trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của Trần Hà là nguy hiểm cho xã hội. Là người có nhận thức nhưng lười lao động, thích sống trên đồng tiền làm ra từ mồ hôi công sức của người khác [...] nên cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe giáo dịc phòng ngừa chung.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo Trần H không vi phạm các tình tiết định khung nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:

Tình tiết tăng nặng hình sự: Bị cáo H không phạm vào tình tiết tăng nặng hình sự nào.

Tình tiết giảm nhẹ hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo; Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Những tình tiết giảm nhẹ trên được quy định tại Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 – Bộ luật Hình sự năm 1999.

Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị Xã Kỳ Anh là có căn cứ phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi mà các bị cáo đã gây. Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo có hai tiền án đã được xóa án tích nhưng không được coi là nhân thân tốt, nên cần xử lý bị cáo ở mức khởi điểm cũng đủ nghiêm và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

Theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, hiện đang nuôi con nhỏ; nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với 01 ví da nam, màu đen là tài sản trộm cắp tuy nhiên ví đã củ không có giá trị sử dụng do đó Hội đồng định giá không định giá được; nên. Hội đồng xét xử miễn xét.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi Công an thị xã Kỳ Anh thu giữ tài sản đã trả cho người bị hại, nay bị hại không yêu cầu bồi thường. Nên đồng xét xử miễn xét.

[5]. Vật chứng đã thu giữ: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành gồm các mệnh giá: 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng): 08 tờ; 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng): 03 tờ; 10.000 đồng (Mười ngàn đồng): 04 tờ; 5.000 đồng (Năm ngàn đồng): 01 tờ; 500 đồng (Năm trăm đồng): 01 tờ; 01 ví da nam, màu đen. (Số tiền này trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã trả lại cho chủ sở hữu). Nên đồng xét xử miễn xét.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần H phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138, Điểm p Khoản 1 Khoản 2 Điều 46 – Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Trần H 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/01/2017 đến ngày 24/02/2017.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 99 – Bộ luật Tố tụng Hình sự, Khoản 1 Điều 21, Khoản 3 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về  án phí và lệ phí toà án, tuyên:Bị cáo Trần H phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên toà án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường cũng như về hình phạt lên toà án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;