Bản án 317/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 317/2019/HS-ST NGÀY 23/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 331/2019/TLST-HS ngày 06/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 331/2019/QĐXXST-HS ngày 10/12/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh TT; Sinh năm: 1977; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Khu 7, phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Trịnh Kim H ; Con bà: Phùng Thị S; Vợ: Mai TH; Bị cáo có 03 con (Con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2014); Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Trích lục tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Bản án số 39/2011/HSST ngày 27/7/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Trịnh TT 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 47 tháng 24 ngày, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Đã được xoá an tích).

- Năm 2016 Trịnh TT bị Công an phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu đồng) về hành vi:“Xúc phạm danh dự nhân phẩm thành viên trong gia đình”.

Danh bản số 550, lập ngày 04/9/2019, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/08/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ 00 phút, ngày 28/08/2019, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, làm nhiệm vụ tại cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, đã phát hiện Trịnh TT đang đứng cạnh một người đàn ông có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì bất ngờ người đàn ông đứng cùng Thành bỏ chạy, phát hiện trong mũ bảo hiểm Thành đang đội trên đầu có 01 túi nilông màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma tuý Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải Trịnh TT cùng vật chứng về Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ.

Vt chứng thu giữ: 01 túi nilông màu hồng , bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead, màu mận, BKS: 36F5- 10755 (xe đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ và 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Ti Kết luận giám định số: 5628/KLGĐ-PC09 ngày 05/09/2019 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận:“Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nilông màu hồng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,188 gam.

Quá trình điều tra xác định:

Trịnh TT làm nghề chở khách tH tại khu vực bến xe Nước Ngầm, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 28/8/2019, khi Thành đang đứng đợi khách thì có một người đàn ông không quen biết (sử dụng số điện thoại 0338796423) gọi điện thoại cho Thành hỏi mua 01 gói ma túy Heroine với giá 400.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm nghìn đồng). Thành biết ma tuý là chất mà Nhà Nước cấm mua bán, sử dụng, nếu mua được thì bán sẽ thu lợi nhuận rất cao, nên Thành nhận lời và cùng thoả thuận giao nhận ma túy tại cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, đồng thời người mua ma tuý hứa sẽ trả thêm cho Thành 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) tiền công. Thành khai: Sau khi thoả thuận với người đó xong, Thành gọi điện thoại đến số 0986657075, cho một người tên là H (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 400.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm nghìn đồng) ma túy Heroine, theo sự hướng dẫn của H nên Thành đến cổng Siêu thị Điện máy Xanh trên đường Giải Phóng, cách Bến xe Nước Ngầm khoảng 400m và mua được của H 01 gói ma túy Heroine với giá 400.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm nghìn đồng). Sau đó, Thành giấu gói ma túy Heroine vào bên trong mũ bảo hiểm Thành đội trên đầu, rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Lead, BKS 36F5 - 107.55 đi thẳng đến cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để bán cho người đàn ông như đã hẹn trước đó. Khi gặp nhau, người mua ma tuý đưa tiền cho Thành, Thành chưa kịp đếm và đang định lấy ma túy Heroine ra để đưa cho nam thanh niên thì bị tổ công tác Công an quận Nam Từ Liêm bắt quả tang. Lợi dụng sơ hở, đối tượng mua ma tuý bỏ chạy thoát.

Ti Cơ quan điều tra, Trịnh TT khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đi với đối tượng tên H (sử dụng số điện thoại tH bao 0986657075) bán ma túy cho Thành, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh thông tin chủ thuê bao là Lê Duy H (Sinh năm: 1975; HKTT: Tổ 30, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Tiến hành ghi lời khai Lê Duy H xác nhận bản thân H không sử dụng số thuê bao 0986657075, H không biết, không nhớ có đăng ký số tH bao trên không, và khẳng định bản thân không có quan hệ gì với Thành, không giao dịch mua bán ma túy với Thành. Tiến hành cho Thành nhận dạng qua ảnh Chứng minh nhân dân của Lê Duy H, kết quả Thành xác nhận Lê Duy H không phải là người bán ma túy cho Thành. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Đi với đối tượng mua ma túy của Thành sử dụng số thuê bao 0338796423 (Như Thành khai). Quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là Đinh Văn Ba (Sinh năm: 1950; HKTT: Xã Mông Sơn, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái). Tiến hành ghi lời khai Đinh Văn Ba xác nhận bản thân ông Ba không sử dụng số thuê bao 0338796423. Ông Ba không biết, không nhớ có đăng kí số thuê bao trên không, đồng thời khẳng định bản thân chưa bao giờ gặp Trịnh TT, không giao dịch mua bán ma túy với Thành. Do đó cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu mận, BKS 36F5 – 10755 (thu giữ của Thành khi bắt quả tang). Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe trên là của chị Mai TH (Sinh năm: 1979; HKTT: Khu 7, phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa) là vợ của Thành. Chị Hà không biết việc Thành sử dụng xe máy để đi bán ma túy. Nên, ngày 25/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 87/QĐ-ĐTMT, trao trả chiếc xe máy trên cho chị Mai TH, chị Hà không có đề nghị gì khác.

Bản Cáo trạng số 341/CT-VKS ngày 28/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Trịnh TT về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều luật quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo Trịnh TT và kết luận giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 01 lần bị kết án, tuy đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại phạm tội; Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Thành từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ là: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh TT, cán bộ Nguyễn Xuân Minh và giám định viên Phạm Đình Đạo; Tịch thu, nộp ngân sách Nhà Nước số tiền: 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng), là tiền bị cáo do phạm tội mà có và 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ, là phương tiện phạm tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 28/8/2019, tại cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Trịnh TT đang có hành vi cất giấu 0,188 gam ma túy Heroine, mục đích để bán kiếm lời. Khi Thành đang nhận tiền, chưa kịp đưa ma túy cho người mua thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Thành đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố bị cáo về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy. Bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, nhưng bị cáo vẫn thực hiện, vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 01 lần bị kết án về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích, nhưng bị cáo lại phạm tội; Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng, loại ma túy bị cáo mua bán, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Thành từ 30 tháng đến 36 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ là: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh TT, cán bộ Nguyễn Xuân Minh và giám định viên Phạm Đình Đạo; Tịch thu, nộp ngân sách Nhà Nước số tiền: 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng), là tiền bị cáo do phạm tội mà có và 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh TT phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Trịnh TT 03(Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/8/2019.

Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh TT, cán bộ Nguyễn Xuân Minh và giám định viên Phạm Đình Đạo; Tịch thu, nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 59 ngày 05/12/2019, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội); Tịch thu, nộp ngân sách Nhà Nước số tiền: 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản, lập ngày 05/12/2019, tại: Kho bạc Nhà Nước Nam Từ Liêm).

n cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo Thành phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 317/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:317/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;