Bản án 313/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 313/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LÝ HÔN, NUÔI CON

Ngày 24/5/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 105/TLST-HNGĐ ngày 12/02/2019 về việc: Tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 98/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08/5/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985

HKTT: Số 11B ngõ 667 N, G, Long Biên, Hà Nội. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Ngô Quang C, sinh năm 1974

HKTT: Số 11B ngõ 667 N, G, Long Biên, Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Ngô Quang C tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 30/3/2005 tại UBND xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bỉnh. Sau khi kết hôn được khoảng 2 năm thì anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Bản thân anh C không chăm lo cho gia đình. Hai anh chị đã tự hòa giải, nói chuyện với nhau và cũng đã được hai bên gia đình đã khuyên nhủ, hòa giải nhưng mâu thuẫn giữa anh chị ngày càng trầm trọng. Từ năm 2012 đến nay, anh chị sống ly thân. Nay chị nhận thấy cuộc sống chung của anh chị không còn H P, không còn có khả năng hàn gắn, chị không còn tình cảm gì với anh C nữa nên chị xin được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Ngô Quang P, sinh ngày 04/5/2007. Sau khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – Anh Ngô Quang C: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C hợp lệ nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do chính đáng.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thẩm quyền: Toà án nhân dân quận Long Biên đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành giao các văn bản tố tụng và tiến hành trình tự, thủ tục tại phiên toà đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng tại phiên toà đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không đến Tòa án để làm việc mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326 về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H, tài sản không xem xét giải quyết và chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, sau khi thảo luận và nghị án, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu anh Ngô Quang C đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị H nhưng anh C vắng mặt không có lý do. Chị H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh C là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Ngô Quang C đăng ký kết hôn tại UBND xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 30/3/2005 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 38, quyển số 01/2005. Xét thấy anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn và có tìm hiểu, do đó đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Ngô Quang C, Hội đồng xét xử nhận định: Qua xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: Sau khi kết hôn, anh chị có đăng ký hộ khẩu thường trú và chung sống tại địa chỉ số 11B, ngõ 667 N, tổ 16, phường G, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống, giữa hai anh chị đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm dẫn đến căng thẳng. Hiện anh chị đang sống ly thân. Chị H xác định cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị không còn tình cảm với anh C và anh chị không có khả năng hàn gắn. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn giữa chị H và anh C đã căng thẳng, đời sống chung không thể kéo dài và không có H P. Vì vậy, chị H xin ly hôn với anh C là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh C.

[3] Về con chung: Tài liệu thu thập trong vụ án thể hiện: Chị H và anh C trong thời kỳ hôn nhân có một con chung là cháu Ngô Quang P, sinh ngày 04/5/2007. Hiện nay, cháu P đang ở với chị H. Sau khi ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu P. HĐXX thấy rằng: Xét điều kiện nuôi con của chị H, hiện chị H đang làm việc tại công ty cổ phần mỹ phẩm vẻ đẹp Việt, thu nhập trung bình 30 triệu đồng một tháng, nơi ở sau khi ly hôn là tầng 2, 80B N, Long Biên, Hà Nội. Do đó, về điều kiện nuôi con của chị H là đảm bảo. HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H: Giao cháu P cho chị H được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với pháp luật Chị H không yêu cầu anh C đóng góp cấp dưỡng nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh C đối với chị H.

[4] Về tài sản chung và công nợ: Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 271; Điều 273 và Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

- Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H đối với bị đơn anh Ngô Quang C.

Xử: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Ngô Quang C.

2.Về việc nuôi con chung: Xác định chị H và anh C có 01 (Một) con chung là cháu Ngô Quang P, sinh ngày 04/5/2007. Ly hôn, giao cháu P cho chị H được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh C đối với chị H cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định pháp luật khác thay thế.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

3. Về tài sản chung và công nợ: Chị H không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001220 ngày 12/02/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên.

Án xử công khai sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị H và anh Ngô Quang C đều vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 313/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:313/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;