TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 31/2024/DS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2024/TLST-DS, ngày 08 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2024/QĐXXST-DS, ngày 23 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần S (sau đây gọi tắt là: Công ty); trụ sở chính:
128 N, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An.
Người đại diệp hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Anh H, sinh năm 1997; địa chỉ: D L, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo Quyết định số 289/2023/UQ-SVN ngày 01/10/2023) (Có mặt).
2. Bị đơn: Bà Trần Thị Sa V, sinh năm 1993, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện lập ngày 27/12/2023, nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay trình bày: Vào ngày 27/7/2022, bà Trần Thị Sa V có đến chi nhánh S1 của Công ty cổ phần S Có Ngay; tại địa chỉ D L, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, để ký hợp đồng cầm cố tài sản. Cụ thể theo hợp đồng cầm cố số: STM220701027NA17X được ký giữa các bên ngày 27/7/2022 số đăng ký Giao dịch Đảm bảo trên Hệ thống Đăng ký Trực tuyến của Cục Đ:
Giaodichdambao/botuphap: 1467363172 theo web https://dktructuyen.moj.gov.vn/ thì bà Trần Thị Sa V cầm cố tài sản là: 01 xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017. Để lấy số tiền là 8.800.000 đồng (tám triệu tám trăm nghìn đồng); thời hạn cầm cố là 12 tháng (từ 27/7/2022 - 27/7/2023) với mức lãi suất là 1,1%/tháng; lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Theo hợp đồng cầm cố đã ký thì công ty đã giải ngân đầy đủ số tiền trên cho bà Trần Thị Sa V. Ngoài ra, do nhu cầu cần có xe đi lại hàng ngày nên Công ty có ký giấy cho bà Trần Thị Sa V mượn lại xe sử dụng. Trong Giấy mượn xe có quy định rõ thời hạn mượn xe từ 27/7/2022 đến 27/8/2022 địa điểm trả xe là tại chi nhánh S1. Bà Trần Thị Sa V có cam kết rõ ràng trong giấy mượn xe: “Hoàn trả lại tài sản mượn đúng thời hạn và địa điểm đã thỏa thuận”.
Quá trình trả nợ, tính đến ngày 27/8/2022 bà Trần Thị Sa V thanh toán được cho Công ty được số tiền gốc là 671.000 đồng và lãi 97.000 đồng. Từ ngày 28/8/2022 đến nay thì không thanh toán tiền gốc, lãi và cũng không trả lại xe máy cho Công ty. Nhân viên của Công ty đã nhiều lần liên hệ qua điện thoại và đến nhà bà Trần Thị Sa V tại địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng nhưng đều không có kết quả.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay là ông Võ Anh H thay đổi và xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Buộc bị đơn bà Trần Thị Sa V phải thanh toán một lần toàn bộ khoản nợ cho Công ty tính đến ngày 29/3/2024 với số tiền nợ gốc là 8.129.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 29/3/2024 là 2.079.000 đồng, bao gồm lãi trong hạn từ ngày 28/8/2022 đến ngày 27/7/2023 là 984.000 đồng, tiền lãi quá hạn từ ngày 28/7/2023 đến ngày 29/3/2024 là 1.095.000 đồng, tổng cộng 10.208.000 đồng; không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng kể từ ngày 30/3/2024. Xin rút lại yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017; rút lại yêu cầu về khoản phí 2,6% và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
- Đối với bị đơn bà Trần Thị Sa V: Quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị Sa V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt các văn bản tố tụng khác nhưng không thể thực hiện được thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho họ được vì bà V đã bỏ địa phương đi và không thông báo cho Tòa án và nguyên đơn biết việc đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 3 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho họ theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thâm phan, Thư ký, Hôi đồng xet xư va những người tham gia tố tụng trong qua trinh giai quyết vu an kê tư khi thu ly vu an đến trươc thơi điêm Hôi đồng xet xư vao nghi an đã chấp hanh đung cac quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư, đối với bị đơn bà Trần Thị Sa V chưa chấp hành đúng quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 280, Điều 309, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uy ban thương vu Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Điều 26 Luật thi hành án dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn bà Trần Thị Sa V hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tính đến ngày 29/3/2024 là 10.208.000 đồng, bao gồm tiền nợ gốc là 8.129.000 đồng, lãi 2.079.000 đồng. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017; rút lại yêu cầu về khoản phí 2,6% và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán do nguyên đơn đã rút yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung khởi kiện, nguyên đơn Công ty yêu cầu bà Trần Thị Sa V trả số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng cầm cố tài sản mà bà Trần Thị Sa V ký kết nên quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong vụ án, bị đơn bà Trần Thị Sa V cư trú tại ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện Long Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Bị đơn bà Trần Thị Sa V từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà V nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà V hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, bị đơn bà Trần Thị Sa V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà V.
[3]. Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về việc chỉ yêu cầu bị đơn bà Trần Thị Sa V phải thanh toán một lần toàn bộ khoản nợ cho Công ty tính đến ngày 29/3/2024 với số tiền nợ gốc là 8.129.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 29/3/2024 là 2.079.000 đồng (bao gồm lãi trong hạn từ ngày 28/8/2022 đến ngày 27/7/2023 là 984.000 đồng, tiền lãi quá hạn từ ngày 28/7/2023 đến ngày 29/3/2024 là 1.095.000 đồng), tổng cộng 10.208.000 đồng; không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng kể từ ngày 30/3/2024. Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện và không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn xin rút lại yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017; rút lại yêu cầu về khoản phí 2,6%/tháng và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử chấp nhận theo khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự và đình chỉ giải quyết đối với những yêu cầu đã rút trên của nguyên đơn.
[5]. Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bà Trần Thị Sa V có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc là 8.129.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Để chứng minh cho việc bị đơn bà Trần Thị Sa V có vay vốn, Công ty cung cấp cho Tòa án chứng cứ là hợp đồng cầm cố tài sản số: STM220701027NA17X được ký giữa các bên ngày 27/7/2022 số đăng ký Giao dịch Đảm bảo trên Hệ thống Đăng ký Trực tuyến của Cục Đ: Giaodichdambao/botuphap: 1467363172 theo web https://dktructuyen.moj.gov.vn/ và phụ lục hợp đồng và Công ty đã giải ngân số tiền 8.800.000 đồng chuyển cho người thụ hưởng là Trần Thị Sa V, số tài khoản 5738037 ngân hàng A Chi nhánh S1 với nội dung chuyển tiền cho khách hàng Trần Thị Sa V; phiếu chi ngày 27/7/2022 số tiền 8.800.000 đồng có chữ ký của người nhận tiền là Trần Thị Sa V và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy, Hợp đồng cầm cố tài sản được các bên xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay bị ép buộc nên đây là hợp đồng hợp pháp phù hợp với quy định với Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015; đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bà V biết nhưng bà V không có ý kiến phản đối gì. Do đó, Hội đồng xét xử khẳng định bà V đã vay và nhận đủ của Công ty số tiền là 8.800.000 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tính đến ngày 27/8/2022 thì bà V trả cho Công ty được số tiền gốc là 671.000 đồng và tiền lãi là 97.000 đồng, từ đó đến nay bà V không trả tiền gốc và lãi cho Công ty N là vi phạm nghĩa vụ theo giao kết trong hợp đồng cầm cố, đã vi phạm Điều 4 của Hợp đồng cầm cố tài sản và Điều 4 của phụ lục hợp đồng mà các bên đã ký kết, bà V là người có lỗi, là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nguyên đơn Công ty yêu cầu bị đơn bà V phải trả cho Công ty số tiền vay gốc còn nợ 8.129.000 đồng là phù hợp theo quy định tại Điều 280, Điều 309, Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6]. Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại hợp đồng cầm cố tài sản số: STM220701027NA17X được ký giữa các bên ngày 27/7/2022 giữa Công ty và bà V đã giao kết mức lãi suất là 1,1%/tháng; lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Do đó, mức lãi suất của hợp đồng các bên đã ký kết là phù hợp theo quy định tại khoản 6 Điều 29 Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên bị đơn phải có nghĩa vụ trả lãi cho nguyên đơn theo hợp đồng đã giao kết. Việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng từ ngày 28/8/2022 đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bị đơn là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, bà V phải có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền lãi theo giao kết của hợp đồng đến ngày 29/3/2024 với số tiền là 2.079.000 đồng (trong đó: Lãi trong hạn từ ngày 28/8/2022 đến ngày 27/7/2023 là 984.000 đồng, lãi quá hạn từ ngày 28/7/2023 đến ngày 29/3/2024 là 1.095.000 đồng) là có căn cứ, phù hợp với nội dung thỏa thuận về việc tra nợ gốc lãi, chuyển nợ quá hạn tại hợp đồng cầm cố tài sản đa ky kết nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Như vậy, bị đơn bà Trần Thị Sa V có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền vay gốc còn nợ là 8.129.000 đồng, tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng đ ến ngay 29/3/2024 là 2.079.000 đồng (trong đó: Lãi trong hạn từ ngày 28/8/2022 đến ngày 27/7/2023 là 984.000 đồng, lãi quá hạn từ ngày 28/7/2023 đến ngày 29/3/2024 là 1.095.000 đồng), tổng cộng là 10.208.000 đồng. Do Công ty không yêu cầu bà V phải chịu lãi phát sinh theo hợp đồng cầm cố kể từ ngày 30/3/2024 nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6]. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trường hợp khi bà V thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi sẽ giao trả lại cho bà V bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017 đối với xe mô tô biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785 đứng tên Trần Thị Sa V nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[7]. Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu 510.400 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 280, 309, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uy ban thương vu Quốc hội; Điều 26 Luật thi hành án dân sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay.
1.1. Buộc bị đơn bà Trần Thị Sa V có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 29/3/2024 với số tiền là 10.208.000 đồng, bao gồm tiền gốc là 8.129.000 đồng, tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng đến ngay 29/3/2024 là 2.079.000 đồng (trong đó: Lãi trong hạn từ ngày 28/8/2022 đến ngày 27/7/2023 là 984.000 đồng, lãi quá hạn từ ngày 28/7/2023 đến ngày 29/3/2024 là 1.095.000 đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Công ty cổ phần S Có Ngay có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bà Trần Thị Sa V phải trả lãi cho Công ty cổ phần S Có Ngay đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
1.2. Ngay sau khi bà Trần Thị Sa V thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ thì Công ty cổ phần S có trách nhiệm trả lại cho bà V bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017 đối với xe mô tô biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785 đứng tên Trần Thị Sa V.
1.3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc phát mãi tài sản là xe mô tô biển kiểm soát 83P3-109.xx, loại xe Yamaha Sirius Fi màu: đen xám, số khung RLCUE1710HY167486, số máy E3T6E244785; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 124699 do Công an tỉnh S cấp ngày 17/5/2017; khoản phí 2,6%/tháng và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Trần Thị Sa V phải chịu 510.400 đồng (Năm trăm mười nghìn bốn trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty cổ phần S Có Ngay số tiền tạm ứng án phí là 341.525 đồng (Ba trăm bốn mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi lăm đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003306, ngày 29/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bi đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 31/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản
Số hiệu: | 31/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về