TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRC, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 17/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
- Kim Thị Ng, sinh ngày 01/01/1967; tại huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nơi cư trú kh2, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nữ tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kim Ng (đã chết) và bà Ô Thị T (đã chết); bị cáo có chồng tên Thạch Dinh (đã chết) và 02 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nh thân: Chưa từng bị kết án, chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; Bị khởi tố ngày 13/01/2023 và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến ngày 15/5/2023, có mặt.
- Bị hại: Ông Sơn Văn C, sinh ngày 01/01/1981. Địa chỉ kh2, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Kim Thị Chanh Tr, sinh năm 1987. Địa chỉ kh2, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt có ủy quyền cho ông Sơn Văn C làm đại diện.
- Người làm chứng:
Anh Nguyễn Minh Tr, sinh năm 1991. Địa chỉ: ấp ThX, xã KS, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt Anh Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1983. Địa chỉ: ấp ThX, xã KS, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt.
Anh Trương Văn Phú Nh, sinh năm 1992. Địa chỉ: ấp ThX, xã KS, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt Chị Kim Thị Ngọc Th, sinh năm 1997. Địa chỉ kh2, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt
- Người phiên dịch: Ông Thạch D, sinh năm 1957. Địa chỉ kh5, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Kim Thị Ng là chị ruột của bà Kim Thị Chanh Tr. Vào năm 2014 bà Chanh Tr được mẹ ruột là bà Ô Thị T (đã chết) cho thừa kế diện tích đất 926,1m2 tại thửa số 36, tờ bản đồ số 35 do Ủy ban Nhân dân huyện TrC cấp ngày 18/8/2014. Quá trình sinh sống bị cáo cho rằng bà Chanh Tr sau khi được đứng tên thửa đất nêu trên đã không phụng dưỡng bà Tông cho đến khi bà Tông chết nên bị cáo không đồng ý cho bà Chanh Tr tiếp tục sử dụng phần đất trên. Đồng thời, khởi kiện đến Tòa án Nhân dân huyện TrC để giải quyết.
Vào ngày 30/8/2022, chồng của bà Chanh Tr là ông Sơn Văn C có thuê ông Nguyễn Minh Tr, sinh ngày: 01/12/1991; ông Nguyễn Thanh Th, sinh ngày: 07/4/1983 và ông Trương Văn Phú Nh, sinh ngày: 01/01/1992 cùng nơi thường trú và nơi ở hiện tại: ấp ThX, xã KS, huyện TrC đến để dọn cỏ tại phần đất đang Trnh chấp. Lúc này, ông C đậu xe ô tô, biển số: 62A - X của ông C phía trước nhà bà Chanh Tr nằm trên phần đất trên để xem dọn cỏ. Đến khoảng 09 giờ 50 phút cùng ngày, con dâu của bị cáo là bà Kim Thị Ngọc Th, sinh ngày: 23/7/1997 cùng địa chỉ với bị cáo gọi điện thoại cho bị cáo với nội dung có một số người lạ mặt đến dọn cỏ ở trong phần đất nêu trên. Nghe vậy bị cáo đang bán cá, tép ở Chợ Trà Cú thuộc khóm 3, thị trấn Trà Cú liền điều khiển xe mô tô trở về. Khi về đến bị cáo nhìn thấy những người nêu trên đang dọn cỏ. Riêng ông C thì ngồi nhìn trước hàng ba nhà của bà Chanh Tr.
Lúc này, bị cáo nói với ông C “Mày là ai mà có quyền lại dọn đất này, đất này là cha mẹ tao để lại, đang Trnh chấp chưa giải quyết xong, khoan đã làm” nhưng ông C không trả lời gì, những người đang làm cỏ định dừng lại nhưng ông C nói “Đất này của tao anh em cứ tiếp tục làm cỏ” nên những người trên tiếp tục dọn cỏ. Do tức giận nên bị cáo nhặt một đoạn tre khô dùng để làm hàng rào có đặc điểm dạng dẹp, có một đầu nhọn, có kích thước chiều dài 107cm, chiều ngang nơi rộng nhất 6,3cm, chiều ngang nơi hẹp nhất 5,0cm có sẳn trước nhà bà Chanh Tr đi đến gần chỗ những người đàn ông trên, rồi yêu cầu dừng lại nhưng ông Nh trả lời bị cáo rằng “Tôi làm mướn lấy tiền thôi” rồi tiếp tục dọn cỏ. Sau đó, bị cáo bỏ đoạn tre xuống đất rồi nhặt một viên gạch ống có sẳn trước nhà bà Chanh Tr đi đến chỗ ông C rồi nói “Mày ngưng không, không ngưng là tao đánh mày” đồng thời dùng tay trái cầm viên gạch trên đánh nhẹ 02 cái vào tay trái của ông C (không gây thương tích). Ông C mới nói “Bà đụng tôi là tôi đánh bà chết”. Do sợ ông C đánh lại nên bị cáo không tiếp tục đánh ông C nhưng vẫn còn tức giận.
Sau đó, bị cáo nhìn sang chiếc xe ô tô của ông C nên nảy sinh ý định đập phá. Bị cáo tiếp tục cầm viên gạch ống bằng tay trái đập nhiều cái vào phần đầu và hai bên thân xe của ông C. Sau đó, bị cáo vứt viên gạch bỏ liền đi nhặt lại đoạn tre khô tiếp tục đi lại chỗ xe ông C dùng tay trái cầm đoạn tre khô đập nhiều cái vào phần đầu và thân xe của ông C, một lúc bà Thiện đến can ngăn. Sau đó ông C đã tự mang xe đi sửa chữa với chi phí là 5.700.000 (năm triệu bảy trăm nghìn) đồng. Đồng thời tố giác sự việc đến Công an thị trấn Trà Cú, huyện TrC.
Căn cứ vào Bản kết luận định giá tài sản số: 25/KL-HĐĐG, ngày 24/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TrC kết luận: Phần đầu và phần thân dàn đồng (vỏ xe) của xe ô tô, biển số: 62A - X, nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu sơn vàng, đăng ký sử dụng lần đầu ngày 01/12/2016, giá trị sử dụng còn lại 50% tại thời điểm ngày 30/8/2022 có giá là 2.850.000 đồng (hai triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng.
Ngày 13/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều Tr ra Quyết định tạm giữ: 01 (một) đoạn tre khô dùng để làm hàng rào có đặc điểm dạng dẹp, có một đầu nhọn, có kích thước chiều dài 107cm, chiều ngang nơi rộng nhất 6,3cm, chiều ngang nơi hẹp nhất 5,0cm. Đối với vật chứng là 01 (một) viên gạch ống mà bị cáo sử dụng để làm hư hỏng xe ô tô của ông C. Cơ quan điều Tr đã tiến hành cho bị cáo tìm kiếm tại khu vực xảy ra vụ án, nhưng không có kết quả nên không tạm giữ được. Riêng đối với chiếc xe ô tô biển số: 62A - X, quá trình điều Tr xét thấy không cần thiết tạm giữ nên Cơ quan điều Tr đã giao cho chủ sở hữu là ông C quản lý.
Tại Cáo trạng số: 32/CT-VKS-HS, ngày 11 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát Nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Kim Thị Ng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Kim Thị Ng trình bày: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và xin lỗi bị hại, đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 2.850.000 đồng và bị cáo đã giao nộp cho Cơ quan điều Tr 2.850.000 đồng.
Qua giải thích của Hội đồng xét xử, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí sửa chữa xe theo kết luận định giá tài sản với số tiền 2.850.000 đồng.
Phần luận tội, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, Nh thân, điều kiện, hoàn cảnh, tính chất mức độ hành vi của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Kim Thị Ng phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Kim Thị Ng từ 06 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 24 tháng, giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân thị trấn Trà Cú giám sát, giáo dục.
Phần dân sự đề nghị áp dụng điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo cho bị hại số tiền 2.850.000 đồng. Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 (một) đoạn tre khô dùng để làm hàng rào có đặc điểm dạng dẹp, có một đầu nhọn, có kích thước chiều dài 107cm, chiều ngang nơi rộng nhất 6,3cm, chiều ngang nơi hẹp nhất 5,0cm. Về án phí đề nghị buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Khi phát biểu Trnh luận, bị hại ông Sơn Văn C đề nghị xử phạt tù bị cáo để răn đe bị cáo, vì bị cáo đã nhiều lần xúc phạm bị hại làm ảnh hưởng uy tín, danh dự bị hại với mọi người xung quanh.
Kiểm sát viên Trnh luận đối đáp với bị hại: Xét tính chất vụ án ít nghiêm trọng, tài sản thiệt hại không lớn, bị cáo đủ các điều kiện hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được Trnh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét lời khai của bị cáo Kim Thị Ng trong quá trình điều Tr, truy tố và tại phiên tòa là thống nhất với nhau và phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường và vật chứng vụ án thu giữ, cũng như dấu vết hư hỏng trên xe ô tô biển số: 62A - X, phù hợp với lời khai bị hại ông Sơn Văn C và người làm chứng có mặt tại hiện trường vụ án gồm Nguyễn Minh Tr, anh Nguyễn Thanh Th, anh Trương Văn Phú Nh và chị Kim Thị Ngọc Th. Tại phiên tòa, bị cáo Kim Thị Ng xác nhận lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều Tr là do bị cáo tự nguyện khai ra mà không bị ai ép buộc hay dụ dỗ, bị cáo không thay đổi lời khai.
[2] Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số: 25/KL-HĐĐG, ngày 24/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TrC kết luận: Phần đầu và phần thân dàn đồng (vỏ xe) của xe ô tô, biển số: 62A - X, nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu sơn vàng, đăng ký sử dụng lần đầu ngày 01/12/2016, giá trị sử dụng còn lại 50% tại thời điểm ngày 30/8/2022 có giá là 2.850.000 (hai triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng. Hành vi của bị cáo Kim Thị Ng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, hậu quả của hành vi sai trái của bị cáo đã làm cho tài sản của bị hại bị hư hỏng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi sẽ gây thiệt hại tài sản cho người khác và bị cáo mong muốn hậu quả xảy ra, động cơ mục đích do tức giận bị hại thuê người dọn cỏ trên đất Trnh chấp giữa bị cáo với vợ của bị hại. Hành vi của bị cáo Kim Thị Ng đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
[3] Tội phạm bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, xem thường sự nghiêm minh của pháp luật, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo pháp luật nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội đối với những hành vi tượng tự. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là quá trình điều Tr, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; thiệt hại xảy ra không lớn, bị cáo đã nộp tiền tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại cho bị hại theo kết luận định giá tài sản, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số (Khmer) có học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần bị hạn chế dẫn đến bị cáo phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Hội đồng xét xử nhận thấy, trong vụ án này giữa bị cáo Kim Thị Ng và vợ bị hại là bà Kim Thị Chanh Tr chị em ruột với nhau. Nguyên Nh mâu thuẫn xảy ra vụ án xuất phát từ việc Trnh chấp đất đai giữa bị cáo Ng với bà Chanh Tr chưa được giải quyết bằng bản án dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật xác định đất Trnh chấp là của bà Ng hay của bà Chanh Tr. Đất Trnh chấp bà Kim Thị Chanh Tr được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2014, còn bị hại Sơn Văn C kết hôn với bà Chanh Tr năm 2022. Như vậy, đất Trnh chấp không phải là tài sản chung của bị hại với bà Kim Thị Chanh Tr, nhưng bị hại C thuê người đến dọn cỏ trên đất Trnh chấp mà không thông báo cho Tòa án đang giải quyết Trnh chấp để có biện pháp can thiệp, khi bị cáo phát hiện bị hại C thuê người đến dọn cỏ trên đất Trnh chấp thì bị cáo đã yêu cầu bị hại dừng lại nhưng bị hại C nói “Đất này của tao anh em cứ tiếp tục làm cỏ”, chính từ câu nói này đã gây kích động và dẫn đến mâu thuẫn giữa bị cáo và bị hại; do đó, bị hại cũng có một phần lỗi trong vụ án này. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cho rằng hành vi bị cáo Ng chưa đến mức phải cách ly ra khỏi xã hội mà đề nghị cho bị cáo hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là cũng tương xứng với tính chất mức độ hành vi bị cáo gây ra. Xét bị cáo có Nh thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và có đủ các điều kiện hưởng án treo, để cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian nhất định, nếu tái phạm sẽ nghiêm trị.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, qua giải thích của Hội đồng xét xử về tình trạng xe bị thiệt hại đã qua sử dụng sẽ khác với tài sản bị hại sửa chữa, thay thế mới 100% nên bị hại đồng ý chỉ yêu cầu bị cáo Kim Thị Ng bồi thường chi phí sửa chữa xe 2.850.000 đồng theo kết luận định giá tài sản và bị cáo đồng ý. Xét thấy việc thỏa thuận giữa bị cáo Kim Thị Ng và bị hại Sơn Văn C là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận.
[6] Đối với 01 (một) đoạn tre khô dùng để làm hàng rào có đặc điểm dạng dẹp, có một đầu nhọn, có kích thước chiều dài 107cm, chiều ngang nơi rộng nhất 6,3cm, chiều ngang nơi hẹp nhất 5,0cm là vật chứng vụ án không có giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.
[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Trong quá trình điều Tr, truy tố những người tham gia tố tụng không có ai khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều Tr viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều Tr, truy tố. Qua kiểm Tr và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, các biên bản hoạt đồng điều Tr của Cơ quan điều Tr, biên bản khám nghiệm hiện trường… được thu thập là đúng thẩm quyền, trình tự, Th tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Tuyên bố: Bị cáo Kim Thị Ng phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Xử phạt bị cáo Kim Thị Ng 01 (một) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Kim Thị Ng cho Ủy ban Nhân dân thị trấn Trà Cú, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh giám sát, giáo dục.
Trường hợp bị cáo Kim Thị Ng thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Kim Thị Ng cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Kim Thị Ng phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Việc bồi thường thiệt hại: Căn cứ các điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015:
Công nhận sự tự nguyện của bị cáo Kim Thị Ng bồi thường cho bị hại Sơn Văn C số tiền 2.850.000 đồng. Tiếp tục quản lý số tiền 2.850.000 đồng bị cáo giao nộp và được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TrC theo biên lai số 0001566 ngày 20/02/2023 để đảm bảo thi hành án cho bị hại Sơn Văn C.
Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) đoạn tre khô dùng để làm hàng rào có đặc điểm dạng dẹp, có một đầu nhọn, có kích thước chiều dài 107cm, chiều ngang nơi rộng nhất 6,3cm, chiều ngang nơi hẹp nhất 5,0cm.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo Kim Thị Ng, bị hại ông Sơn Văn C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Kim Thị Chanh Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ tuyên án để yêu cầu Tòa án Nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử theo Th tục phúc thẩm.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 31/2023/HS-ST về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 31/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về