Bản án 31/2021/HS-ST ngày 21/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

 BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:34/2021/TLST - HS, ngày 27 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn S, sinh ngày 12/12/1989.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm L, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Sán Chí; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Đình T và bà Trạc Thị P; Gia đình có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/02/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên - bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Luân Văn C, sinh năm 1991/ có mặt.

Trú tại: Xóm La Dẫy, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

* Người làm chứng:

1. Anh Từ Văn B, sinh năm 1979/ vắng mặt.

Trú tại: Xóm C, xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1996/ vắng mặt.

3. Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1990/ vắng mặt.

4. Anh Trương Văn Hán, sinh năm 1988/ vắng mặt. Cùng trú tại: Xóm L, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

* Người chứng kiến:

Ông Ngô Trịnh B, sinh năm 1976/ vắng mặt.

Trú tại: Xóm K 1, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 25/02/2021 tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã K, huyện Đ làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn xóm L, xã K, huyện Đ, phát hiện hai người đàn ông đang dừng xe ở ven đường có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiếp cận, yêu cầu kiểm tra, một người đã bỏ chạy thoát, tổ công tác đã giữ lại được một người là Lương Văn S, kiểm tra phát hiện thu giữ tại túi quần phía sau bên trái S đang mặc 04 gói nhỏ bên trong đều chứa chất bột màu trắng (S khai đó là Heroine của S). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 04 gói nhỏ chất bột màu trắng nêu trên. Ngoài ra còn thu giữ của S 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo vỏ màu xanh đã cũ và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Ablde, BKS:20B1-77564.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của S là 0,905 gam (không phẩy chín trăm linh năm gam) và lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định - ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số 520/KL-KLHS ngày 05/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,905 gam.

Quá trình điều tra S khai: Do bản thân nghiện chất ma túy nên S đã nhiều lần mua ma túy của người phụ nữ không biết tên, địa chỉ ở khu vực cổng phụ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, thuộc phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên về sử dụng cho bản thân và bán lại cho các con nghiện khác kiếm lời. Khoảng 09 giờ ngày 24/2/2021, S mua của người phụ nữ trên 1.000.000đ tiền Heroine rồi mang về chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác. Trong khoảng thời gian từ ngày 08/02/2021 đến ngày 23/02/2021 tại nhà của mình S đã bán Heroine cho những người sau:

- S đã bán cho Trương Văn H (sinh năm 1988, trú tại xóm L, xã K, huyện Đ) 03 lần: Lần thứ 1 vào khoảng 11 giờ ngày 18/02/2021; Lần thứ 2 vào khoảng 12 giờ ngày 18/02/2021; Lần thứ 3 vào khoảng 20 giờ ngày 22/02/2021, Mỗi lần 01 gói với giá 100.000đ.

- S đã bán cho Luân Văn C (sinh năm 1991, trú tại xóm D, xã K, huyện Đ 03 lần: Lần thứ 1 vào khoảng 11 giờ ngày 08/02/2021; Lần thứ 2 vào khoảng 15 giờ ngày 12/02/2021; lần thứ 3 vào khoảng 16 giờ ngày 23/02/2021. Mỗi lần 01 gói với giá 100.000đ.

- Khoảng 22 giờ ngày 22/02/2021 S đã bán cho Hoàng Văn D (sinh năm 1990, trú tại xóm L, xã K, huyện Đ) 01 gói với giá 100.000đ.

- Khoảng 19 giờ ngày 22/02/2021 S đã bán cho Trần Văn Đức (sinh năm 1996, trú tại xóm L, xã K, huyện Đ) 01 gói với giá 100.000đ.

Khoảng 13 giờ 30 ngày 24/2/2021 tại khu vực dốc đá, xóm L, xã K, huyện Đ S bán cho Từ Văn B (sinh năm 1979, trú tại xóm C, xã N, huyện Đ) 01 gói với giá 100.000đ.

Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 25/02/2021 S đang ở nhà thì Từ Văn B tiếp tục gọi điện hỏi mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền Heroine. S đồng ý và hẹn Ba đến khu vực dốc đá của xóm L, xã K, huyện Đ để giao dịch mua bán. Đến khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày S một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiện Honda Ablade BKS 20B1-77564 (xe mượn của C trước đó để đi đám ma) mang theo Heroine từ nhà đến khu vực đã hẹn để bán cho B. Đến nơi gặp B, nhưng chưa kịp bán thì bị tổ Công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, ký hiệu: LK và A1; 01 chiếc điện thoại nhãn hiện Vivo đã cũ màu xanh niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT và 01 xe mô tô nhãn hiện Honda Ablade, BKS 20B1-77564.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 36/CT -VKSĐH ngày 25/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Lương Văn S ra trước TAND huyện Đ để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Kết thúc phần xét hỏi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lương Văn S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 38 BLSHS xử phạt bị cáo Lương Văn S từ 8 năm tù đến 9 năm tù.

- Phạt bổ sung bị cáo Lương Văn S từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong ký hiệu A1, LK; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại của bị cáo nhãn hiện Vivo màu xanh đã cũ niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT; Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 900.000 đồng bị cáo thu lời bất chính do bán ma túy cho các đối tượng nghiện mà có. Trả lại anh Luân Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiện Honda Ablade, BKS 20B1-77564.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án, lệ phí buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án như: Lời khai của những người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, biên bản cân xác định trọng lượng và lấy mẫu giám định, Bản kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác của vụ án được thu thập trong quá trình điều tra.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 08/02/2021 đến ngày 23/02/2021, tại nhà ở của mình bị cáo Lương Văn S đã nhiều lần mua Heroine về sử dụng cho bản thân và bán lại cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời, cụ thể bị cáo đã bán cho Luân Văn C 03 lần, mỗi lần 01 gói với giá 100.000 đồng, bán cho Trương Văn H 03 lần, mỗi lần 01 gói với giá 100.000 đồng, bán cho Hoàng Văn D 01 gói, với giá 100.000 đồng, bán cho Trần Văn Đ 01 gói, với giá 100.000 đồng và bán cho Từ Văn B 01 gói, với giá 100.000 đồng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lương Văn S đã phạm vào Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 BLHS viện dẫn ở trên.

[2] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo Lương Văn S là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng; xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy, làm tệ nạn ma túy diễn biến ngày càng phức tạp khiến dư luận quần chúng bất bình. Vì ma túy là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm, con đường lây nhiễm nhiều bệnh nan y, là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Mặt khác ma túy còn hủy hoại sức khỏe, kinh tế của chính người nghiện. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục thành người lương thiện, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung đối với mọi người.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó trong lượng hình, HĐXX đã có xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[3] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo bán ma túy nhằm mục đích thu lời bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phạt tiền sung quỹ Nhà nước theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, ký hiệu: LK và A1; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại của bị cáo nhãn hiện Vivo màu xanh đã cũ niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT do bị cáo sử dụng vào việc mua bán ma túy; Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 900.000 đồng bị cáo thu lời bất chính do bán ma túy cho các đối tượng nghiện mà có. Trả lại anh Luân Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiện Honda Ablade, BKS 20B1-77564 do S mượn của C để đi đám ma.

[5] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính và các nội dung khác là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[6] Về nguồn gốc ma túy bị cáo khai mua ma túy của một người phụ nữ không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ, do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

[7]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8]Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đối với các đối tượng nghiện mua ma túy của bị cáo S, Công an huyện Đ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp với pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Lương Văn S 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS ra quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.

- Phạt bổ sung bị cáo Lương Văn S 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, ký hiệu: LK và A1.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại của bị cáo S nhãn hiệu Vivo màu xanh đã cũ được niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT.

- Trả lại anh Luân Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Ablade, BKS 20B1-77564.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/6/2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

- Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 900.000 đồng bị cáo thu lời bất chính do bán ma túy cho các đối tượng nghiện mà có.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lương Văn S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 31/2021/HS-ST ngày 21/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;