Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 490/2020/HNGĐ-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kim L, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số 3/52 đường L, Tổ 52, khu phố 3, phường T, thành phố T, tỉnh B, vắng mặt có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Bị đơn: Ông Trần Minh Q, sinh năm 1977. Địa chỉ: Số 56 đường L, khu phố 8, phường T, thành phố T, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Võ Thị Kim L trình bày: Bà Võ Thị Kim L và ông Trần Minh Q là vợ chồng, tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Tân An (nay là phường Tân An), thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương và được Ủy ban cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 07/3/2005. Quá trình chung sống ông Q không có trách nhiệm với gia đình, không chăm lo làm ăn vun đắp hạnh phúc, suốt bao năm bà L một mình lo kinh tế gia đình, ông Q không chia sẽ khó khăn, từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cải vã nhau, bà L xác định không còn tình cảm với ông Q. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Q.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Bảo T, sinh ngày 26/6/2005 và Trần Bảo S, sinh ngày 05/11/2006, khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Minh Q đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án hợp lệ, nhưng ông Q không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà L. Quá trình giải quyết, Tòa án đã ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đã niêm yết hợp lệ cho bị đơn tại nơi cư trú, địa phương và tại trụ sở Tòa án theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ông Q đều vắng mặt không có lý do.

Nguyên đơn bà Võ Thị Kim L có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến trước phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Về phần thủ tục Kiểm sát viên không có kiến nghị khắc phục gì thêm.

Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Bà L và ông Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Nay bà L có đơn xin ly hôn với ông Q và có yêu cầu giải quyết về vấn đề con chung. Như vậy, quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về sự tham gia phiên tòa của các đương sự: Bị đơn ông Trần Minh Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Q không đến Tòa án để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng không thông báo lý do vắng mặt cho Tòa án biết. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngày 12/3/2021 nguyên đơn bà Võ Thị Kim L có đơn xin giải quyết vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về nội dung: Bà L và ông Q là vợ chồng, sống chung có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, vào ngày 07/3/2005 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà L cho rằng vợ chồng sống chung nhưng không hạnh phúc. Nguyên nhân do ông Q không có trách nhiệm với gia đình, vợ con, không cùng chăm lo kinh tế để nuôi con, vợ chồng đã không còn sống chung. Quá trình tố tụng giải quyết Tòa án ban hành thông báo về phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chuyển giao tài liệu, chứng cứ nguyên đơn khởi kiện, thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai tại Tòa án bị đơn không đến Tòa án cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy thể hiện bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng là đã tự từ bỏ quyền tố tụng và nghĩa vụ chứng minh của mình và phải chịu hậu quả pháp lý từ việc này. Do đó hội đồng xét xử chỉ xem xét các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và do Tòa án thu thập. Bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà L được ly hôn với ông Q do tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, hôn nhân không thể kéo dài, vợ chồng đã ly thân mạnh ai nấy sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn ông Q là có căn cứ, đúng pháp luật theo quy định tại theo Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Bảo T, sinh ngày 26/6/2005 và Trần Bảo S, sinh ngày 05/11/2006, khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con. Xét, hiện cháu T và cháu S đang sống cùng bà L, đồng thời cũng có nguyện vọng được tiếp tục chung sống với mẹ. Ông Trần Minh Q không đến Tòa án để trình bày ý kiến nên việc giao con chung cho ông Q là không thể thực hiện được, bà L cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử giao con Trần Bảo T và Trần Bảo S cho mẹ là bà Võ Thị Kim L chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ phân tích trên, xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Tòa chấp nhận.

[5] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Võ Thị Kim L phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Kim L về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" đối với bị đơn ông Trần Minh Q.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Kim L được ly hôn với ông Trần Minh Q.

Về con chung: Bà Võ Thị Kim L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Bảo T, sinh ngày 26/6/2005 và Trần Bảo S, sinh ngày 05/11/2006.

Không ai được quyền cản trở ông Trần Minh Q trong việc thăm nom, chăm sóc con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sau này khi cần thiết.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình: Bà Võ Thị Kim L nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tạm ứng trước đây theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0050533 ngày 16/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;