Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 216/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/QĐST- HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa ngày 01/02/2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D, sinh năm 1993.

Đăng ký hộ khẩu: Khu dân cư T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Người đại diện theo ủy quyền về việc giao, nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án của chị Diến: Chị Đặng Thu Th, sinh năm 1994. Địa chỉ: Khu 4, phường H, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh H, Luật sư - Văn phòng Luật sư B, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Dương. Địa chỉ: Số 2, khu … phường Th, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Đều vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn S, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Phạm Thị D trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, thị xã C (nay là phường Đ, thành phố C), tỉnh Hải Dương ngày 17/02/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng có thời gian ngắn chung sống với nhau tại gia đình anh Kh, đến năm 2017 vợ chồng cùng đi nước ngoài lao động nhưng mỗi người đi một nước nên không có điều kiện sống gần nhau, do vậy tình cảm vợ chồng có nhiều rạn nứt. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng hơn kể từ tháng 9/2019 cho đến nay, nguyên nhân chủ yếu là do chị và anh Kh khác biệt nhau về cách sống, vợ chồng không có sự chia sẻ, gắn kết. Chị muốn anh Kh về Việt Nam làm ăn, sinh sống nhưng anh Kh lại tiếp tục ở lại Nhật Bản làm ăn, vợ chồng không có tiếng nói chung, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Kh.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Văn Kh2, sinh ngày 07/7/2014 hiện đang ở với ông, bà ngoại là Phạm Văn S và bà Phạm Thị L. Chị D đề nghị được nuôi con chung và tự nguyện không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng cho con. Do chị phải đi làm ăn xa nên chị ủy quyền cho bố, mẹ chị thay chị chăm sóc, nuôi dưỡng con chung trong thời gian chị không có mặt tại địa phương.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của ông Nguyễn Văn Kh và bà Trần Thị Ch (là bố, mẹ đẻ anh Kh) trình bày: Ông, bà không biết địa chỉ cụ thể của anh Kh ở Nhật Bản nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh Kh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại về gia đình. Ông, bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Kh biết. Thông qua gia đình, anh Kh trình bày quan điểm và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh nhất trí ly hôn, đề nghị được nuôi con và không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng cho con, trường hợp chị D không nhất trí để anh nuôi con thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Ông Kh và bà Ch xác định trong cuộc sống chị D và anh Kh có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị sống xa nhau đã lâu, không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau, chị D đã dọn đồ chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ lâu, nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bà Phạm Thị L (mẹ đẻ chị D) khai: Chị D và anh Kh sống không hòa hợp, hay xảy ra cãi nhau, chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông, bà cùng nhất trí nhận sự ủy quyền của chị D chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Văn Kh trong thời gian chị D không có mặt tại địa phương, ông bà không yêu cầu chị D, anh Kh phải cấp dưỡng cho con và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tại biên bản lấy lời khai chị Đặng Thu Th xác định, chị vẫn nhất trí nhận sự ủy quyền của chị D về việc giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị đã thông báo cho chị D biết, chị D vẫn giữ nguyên quan điểm như chị đã trình bày.

Tòa án xác minh tại khu dân cư và chính quyền địa phương nơi chị D, anh Kh đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn, chị D đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, anh Kh xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, vợ chồng mỗi người ở một nơi, thời gian chung sống với nhau quá ngắn nên không có sự chia sẻ và dẫn đến mâu thuẫn. Nay, chị D có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và các đương sự đã thực hiện đúng, riêng bị đơn thực hiện chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị D ly hôn anh Nguyễn Văn Kh. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Văn Kh2 cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao cháu Kh cho ông Phạm Văn S và bà Phạm Thị L nuôi dưỡng trong thời gian chị D đi làm ăn xa. Chị D phải chịu án phí dân sư sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị D sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Văn Kh có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở khu dân cư Th, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương, hiện anh Kh đang lao động tại Nhật Bản, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị D không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Kh ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh Kh cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, gia đình ông Kh1, bà C vẫn thường xuyên liên lạc với anh Kh nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho anh Kh biết việc chị D đề nghị giải quyết ly hôn và các thủ tục tố tụng khác. Gia đình đã nhận các văn bản tố tụng và cam đoan thông báo cho anh Kh biết. Tuy nhiên anh Kh vắng mặt lần thứ hai; nguyên đơn và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Thanh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và gửi HĐXX Luận cứ bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Văn Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương ngày 17/02/2014, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không có sự hòa hợp trong cuộc sống, không có sự chia sẻ, gắn bó. Chị đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, anh đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, cuộc sống chung không có, tình cảm không được vun đắp và không còn quan tâm đến nhau. Thông qua gia đình, anh Kh thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D và anh Kh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị D ly hôn anh Kh là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Văn Kh có một con chung là Nguyễn Văn Kh, sinh ngày 07/7/2014. Hiện đang ở với ông bà ngoại. Chị D có nguyện vọng nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng cho con, mặc dù chị đi làm ăn xa nhưng chị đã ủy quyền cho bố mẹ chị là ông S, bà L chăm sóc con chung và bố mẹ chị nhất trí nhận ủy quyền của chị. Anh Kh thông qua gia đình cũng có nguyện vọng nuôi con nhưng anh không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, hơn nữa thông qua gia đình anh cũng có quan điểm nếu chị D không đồng ý thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Do vậy, HĐXX chấp nhận giao con chung Nguyễn Văn Kh cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng cho con. Trong thời gian chị đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương nên tạm giao con chung là Nguyễn Văn Kh2 cho ông S, bà L chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu có căn cứ cho rằng chị D không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh Kh có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D, anh Kh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật và được giải quyết trong vụ án khác.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị D ly hôn anh Nguyễn Văn Kh.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Phạm Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Văn Kh2, sinh ngày 07/7/2014 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Diến không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng cho con.

Tạm giao con chung Nguyễn Văn Kh2, sinh ngày 07/7/2014 cho ông Phạm Văn S và bà Phạm Thị L chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian chị Diến không có mặt tại địa phương.

Không ai được cản trở anh Nguyễn Văn Kh thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0004776 ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị D, ông Phạm Văn S và bà Phạm Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;