Bản án 31/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 31/2020/HS-PT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần Hữu N, Phan Văn K, Trần T1, Trương Minh V, Trần Cao H2. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. NGUYỄN VĂN T, sinh ngày 27/02/1997 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Q và bà Lê Thị Thanh N (Cả hai đều còn sống); Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 18/02/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

2. NGUYỄN H, sinh ngày 21/11/1992 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn B và bà Trần Thị N (Cả hai đền còn sống); Có vợ Hoàng Thị Thúy L và có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 18/02/2019. Bị cáo hiện đang bị tạm giam. Có mặt.

3. TRẦN HỮU N, sinh ngày 13/10/1996 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông (không rõ) và bà Trần Thị T (còn sống); Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 18/02/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

4. PHAN VĂN K, sinh ngày 10/01/1988 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ xây dựng; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn P (chết) và bà Phạm Thị M (còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 18/02/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

5. TRẦN T1, sinh ngày 28/10/1999 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần T và bà Lê Thị L (Cả hai đều chết); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 19/7/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

6. TRƯƠNG MINH V, sinh ngày 10/7/1996 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương N và bà Mạc Thị C (Cả hai đều còn sống); Có vợ Phan Thị Ngọc A và có 03 con (lớn nhất 03 tuổi, nhỏ nhất 01 tháng tuổi); Tiền án, tiền sự; Không. Bị bắt giam ngày 19/7/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

7. TRẦN CAO H2, sinh ngày 26/02/1993 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huvện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ xây dựng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Cao H (Chết) và bà Mai Thị L (còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giam ngày 19/7/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Ông Võ Văn D - Luật sư Văn phòng luật sư T, thuộc đoàn Luật sư TP Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Trần T1. Có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị H - Luật sư Công ty luật TNHH MTV T, thuộc đoàn Luật sư TP Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Nguyễn H. Có mặt.

3. Ông Nguyễn Văn L - Luật sư Văn phòng luật sư T, thuộc đoàn Luật sư TP Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu N1 và bị cáo Trần Cao H2. Có mặt.

4. Ông Nguyễn Ngọc C - Luật sư Văn phòng luật sư T, thuộc đoàn Luật sư TP Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Trương Minh V. Có mặt.

5. Ông Lê Hữu P - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV H và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư TP Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Phan Văn K. Có mặt.

- Bị hại: Anh Chu Văn H1, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

(Ngoài ra trong vụ án có 11 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, 11 người làm chứng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 17.02.2019, Nguyễn Văn T, Trần Cao X và Trần Quốc C đi qua thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng dự tiệc liên hoan chia tay bạn đi bộ đội. Tại đây, T có lời qua tiếng lại với một số thanh niên tham gia trong buổi tiệc. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày, T, X, C ra về đi đến ngã tư P thì dừng lại. Lúc này, Trần Văn L1 đi đến thấy T nên dừng lại nói chuyện thì giữa T và L1 xảy ra mâu thuẫn, T, X, C xông vào dùng tay, chân đánh L1. Khi nghe L1 bị đánh thì Trương Văn H, Trần Q, La Chí P, Chu Văn H1 và Thái Văn H3 cùng trú thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng đang ở gần khu vực đó chạy đến. Lúc này, H chạy vào bếp nhà ông Nguyễn Văn B lấy 01 con dao dài 30 cm đuổi đánh T, X, C, T. C bỏ chạy về thôn N, còn X bỏ chạy về phía rừng keo núp rồi điện thoại cho Trần T1 nói “mi ở mô đó, ta bị mấy thằng P cầm dao dí chạy vô rừng rồi, mi gọi thêm mấy thằng lên dẫn ta về”, T1 đồng ý. T1 điều khiển xe mô tô BKS: 43K1-387.27 đi tìm Trần Hữu N, trên đường đi thì gặp Trương Minh V, T1 nói lại sự việc của X cho V biết, V điều khiển xe mô tô BKS: 43K1-127.59 đi tìm X, còn T1 tiếp tục đi tìm N. Khi gặp N, T1 nói “X bị đánh bên ni qua chở hắn về”, N đồng ý. N nhặt 01 khúc cây ngồi lên xe T1 chở đi tìm X.

T và C sau khi bỏ chạy về đến khu vực gần nhà Nguyễn T2 thì gặp: T1, N, V, Nguyễn H, Phan Văn K, Trần Cao H2, Mạc Văn V và Phạm Tấn Y cùng trú: Thôn N, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. T và các đối tượng hô hào qua đánh lại thanh niên P. T1 điều khiển xe mô tô BKS: 43K1-387.27 chở N cầm theo 01 khúc cây, H điều khiển xe mô tô BKS: 43K1-136.04 chở K cầm theo 02 khúc cây, V điều khiển xe mô tô BKS: 43K1-127.59 chở H2 cầm theo 01 khúc cây, T cầm theo 01 cây rựa (không nhớ đi với ai) đi qua thôn P còn V kéo C vào nhà T2, Y đi về nhà không tham gia đi đánh nhau. Khi nhóm T đi đến khúc cua (gần ngã tư thôn P) thì gặp X đi từ trong rừng keo ra. X thây nhóm T mang theo hung khí nên hô hào cả nhóm qua đánh lại thanh niên nhóm P, X nhặt 01 khúc cây rồi cùng cả nhóm đi đến ngã tư P. Khi gần đến ngã tư P thì X, V, N nhặt gạch đá ném về nhóm thanh niên P, K ném cây về phía thanh niên P. Lúc này nhóm thanh niên P gồm: H2, H, P nhặt gạch, đá, cây xúc rác và ghế gỗ ném lại nhóm của X rồi bỏ chạy. Chu Văn H1 nhặt 02 khúc cây cầm 02 tay xông về phía nhóm của X đánh trúng tay của H, H cầm cây đánh lại theo hướng từ phải qua trái trúng tay trái của H1, H1 lùi lại thì trượt té nằm xuống bên lề đường. Ngay lúc đó X, N, H cầm cây xông đến đánh từ trên xuống dưới nhiều cái vào người của H1 (không nhớ rõ vị trí đánh), K dùng chân đạp nhiều cái vào người H1, T dùng rựa chém từ trên xuống dưới 03 nhát: 01 nhát trúng chân trái của H1 còn 02 nhát trúng xuống nền đường làm H1 gục tại chỗ. Sau đó H cầm chân kéo H1 ra ở giữa đường thì nghe có người hô Công an đến nên các đối tượng bỏ chạy. H1 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 226/TgT ngày 29.7.2019 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận thương tích của Chu Văn H1:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương vùng đầu, mặt: Dập não, tụ khí nội sọ, tụ máu dưới màng cứng, vỡ xương trán trái, xoang trán và xoang sàng trái, tụ máu các xoang. Đã được phẫu thuật khoan Vollet mở nắp sọ lấy máu tụ, dẫn lưu, đặt lại nắp sọ. Hiện tại tổn thương bên ngoài đã lành sẹo, nạn nhân tỉnh, tiếp xúc được, không yếu liệt chi, 12 đôi dây thần kinh sọ não không phát hiện bất thường. Trên phim kiểm tra: Không thấy bất thường đậm độ nhu mô não tầng trên và dưới lều. Không thấy máu tụ nội sọ, không thấy ổ dịch, không thấy ổ tổn thương não. Tụ khí nội sọ vùng trán đỉnh hai bên. Hệ thống thất cân đối không dãn. Cấu trúc đường giữa không dị lệch. Vỡ xương trán trái chiều hướng đường nứt d#38mm, vỡ thanh xoang trán trái và xoang sàng trái đã tạo can tốt.

- Vết thương cẳng chân trái, mất vận động ngón II, III, IV, V đã được phẫu thuật chuyển cơ chày sau ra trước. Hiện tại tổn thương bên ngoài đã lành sẹo, vận động cẳng chân và bàn chân trái trong giới hạn bình thường, nạn nhân đi lại bình thường.

- Các tổn thương phần mềm như đã nêu trên.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 43%.

3. Cơ chế và vật gây thương tích:

- Các tổn thương trên do ngoại lực tác động trực tiếp. - Nạn nhân bị nhiều tổn thương, các tổn thương có tính chất và đặc điểm khác nhau nên khó xác định được vật gây thương tích.

Tại Kết luận giám định số: 695/C09C (Đ5) ngày 12.7.2019 tại Phân viện KHHS tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Trên khúc tre đã khô và trên thanh gỗ có dính máu của Chu Văn H1.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T, Trần Cao X, Trần T1, Trần Hữu N, Trương Minh V, Nguyễn H, Phan Văn K, Trần Cao H2 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vói nội dung trên tại Bản cáo trạng số 65/CT-VKS-P1 ngày 3 1/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng đã truy tố:

- Các bị cáo Trần Cao X, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Phan Văn K, Trần Hữu N, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định  Tuyên bố: Các bị cáo Trần Cao X, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Phan Văn K, Trần Hữu N, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 phạm tội “Giết người”.

Căn cứ: Điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 15, khoản 3 Điều 57 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Cao X: 08 (Tám) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 18/02/2019.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 08 (Tám) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù lính từ ngày bị bắt tạm giam 18/02/2019.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn H: 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 18/02/2019.

Xử phạt: Bị cáo Trần Hữu N: 07 (Bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 18/02/2019, Xử phạt: Bị cáo Phan Văn K: 07 (Bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 18/02/2019.

Xử phạt: Bị cáo Trần T1: 07 (Bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 19/7/2019.

Căn cứ: Điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51;

Điều 54, Điều 15, khoản 3 Điều 57 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015(sửa đổi, bổ sung 2017). Xử phạt: Bị cáo Trương Minh V: 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày) bị bắt tạm giam 19/7/2019.

Xử phạt: Bị cáo Trần Cao H2: 05 (Năm) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính lừ ngày bị bắt giam 19/7/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi án xử sơ thẩm: Ngày 24/11/2019, các bị cáo: Trần Cao H2, Trần T1, Trương Minh V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 27/11/2019, các bị cáo: Nguyễn Thanh T, Nguyễn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 28 và 29/11/2019, các bị cáo Phan Hữu N và Phan Văn K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phan Văn K rút kháng cáo; các bị cáo: Trần Cao H2, Trần T1, Trương Minh V, Nguyễn Thanh T, Nguyễn H và Trần Hữu N vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử: đình chỉ xét xử đối với kháng cáo của bị cáo Phan Văn K; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hữu N, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với bị cáo Trần Hữu N; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Thanh T, Nguyễn H, Trần Cao H2, Trần T1, Trương Minh V để giảm hình phạt cho các bị cáo; các Luật sư bào chữa cho các bị cáo: Nguyễn Thanh T, Nguyễn H, Trần Hữu N, Trần Cao H2, Trần T1, Trương Minh V đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Sau khi nghe: Các bị cáo trình bày ý kiến về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án; lời bào chữa của luật sư bào chữa cho các bị cáo và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Theo lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm thì có cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20 giờ 45 ngày 27/02/2019, tại ngã tư P (thuộc đường liên xã H – H, huyện H, thành phố Đà Nẵng) các bị cáo: Trần Cao X, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần Hữu N, Phan Văn K, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 đã có hành vi dùng chân và các hung khí như: cây, rựa để đạp, đánh, chém vào vùng đầu và người của anh Chu Văn H1 gây: dập não, tụ khí nội sọ, tụ máu dưới màng cứng, vỡ xương trán trái, xoang trán và xoang sàng trái, tụ máu các xoang, mất vận động ngón II, III, IV, V bàn chân trái, tỷ lệ thương tích 43%. Với hành vi và hậu quả như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bố các bị cáo: Trần Cao X, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần Hữu N, Phan Văn K, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 phạm tội “Giết người ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn K rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử kháng cáo của bị cáo Phan Văn K. Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với bị cáo Phan Văn K có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 24/02/2020.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ của các bị cáo: Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần Hữu N, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo bị truy tố và xét xử về tội: “Giết người” theo tình tiết định khung tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Sau khi phạm tội, các bị cáo khai báo thành khẩn và một số bị cáo đã tác động cho gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại; mặt khác, trong vụ án này do hậu quả chưa làm chết người và có nhiều bị cáo cùng tham gia nên án sơ thẩm cũng đã áp dụng các quy định tại các Điều 54, 57 và 58 Bộ luật hình sự năm 2015 cho các bị cáo để: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 8 năm 06 tháng tù; bị cáo Nguyễn H 08 năm tù; bị cáo Nguyễn Hữu N1, Trần T1 mỗi bị cáo 07 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Trương Minh V 06 năm tù và xử phạt bị cáo Trần Cao H2 05 năm 06 tháng tù đều là các mức án dưới khung của tội mà các bị cáo bị truy tố và xét xử là có căn cứ đúng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của từng bị cáo cũng như hậu quả mà các bị cáo đã gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Hữu N1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hữu N.

Các bị cáo: Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần T1, Trần Minh V và Trần Cao H2 có tác động với gia đình khắc phục hết số tiền bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quyết định của Bản án sơ thẩm. Cụ thể là: bị cáo Nguyễn Văn T 22.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn H 20.000.000 đồng (các biên lai thu tiền số 0000616 và 0000615 ngày 11/12/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng); bị cáo Trương Minh V 15.000.000 đồng, bị cáo Trần T1 18.000.000 đồng, bị cáo Trần Cao H2 15.000.000 đồng (các giấy nhận tiền ngày 29/11/2019, 05/02/2020 và ngày 07/02/2020). Tại phiên tòa, người bị hại cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần T1, Trần Minh V và Trần Cao H2 giảm một phần hình phạt cho các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát và các Luật sư bào chữa cho các bị cáo. Đối với các bị cáo: Trương Minh V, Trần Cao H2, Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cho các bị cáo.

[4]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo: Trần Hữu N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Do kháng cáo được chấp nhận và rút kháng cáo nên các bị cáo: Phan Văn K, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm g, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

[6]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Trần Cao X và Quyết định về: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm và quy định về thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và được thực hiện theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Đình chỉ xét xử kháng cáo của bị cáo Phan Văn K. Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với bị cáo Phan Văn K có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 24/02/2020.

- Căn cứ: Điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

2. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Hữu N. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

3. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. - Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 15; khoản 3 Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 (bảy) năm, 09 (chín) tháng tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn H 07 (bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội: “Giết người ”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N1 07 (bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Phan Văn K 07 (bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Trần T1 06 (sáu) năm, 09 (chín) tháng tù về tội: “Giết người ”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2019.

4. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 15; khoản 3 Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Trương Minh V 05 (năm) năm, 03 (ba) tháng tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Trần Cao H2 04 (năm) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2019.

5. Án phí phúc thẩm:

Áp dụng: Điểm b, g, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Trần Hữu N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

+ Các bị cáo: Phan Văn K, Nguyễn Văn T, Nguyễn H, Trần T1, Trương Minh V và Trần Cao H2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Trần Cao X và Quyết định về: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm và quy định về thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và được thực hiện theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội giết người

Số hiệu:31/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;