Bản án 31/2020/HS-PT ngày 06/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 31/2020/HS-PT NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 20/2020/TLPT-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Trần Ngọc C, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HSST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Ngọc C (T), sinh năm 1984 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn 7, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 3/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Trần Ngọc T (đã chết) và bà Phan Thị M; bị tạm giam từ ngày 03/5/2019 đến ngày 14/6/2019 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh - Có mặt.

- Những người bào chữa cho bị cáo:

1. Ông Dương Lê S – Luật sư Văn phòng luật sư Lê S thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ: Số 200/20/5 Y Wang, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Có mặt.

2. Ông Tô Tiến D – Luật sư Văn phòng luật sư La M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 152 Lê Duẩn, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Có mặt.

- Người bị hại: Nguyễn Văn P, sinh năm 1993; Trú tại: Thôn 6, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

- Những người làm chứng:

1. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1982; Trú tại: Thôn 9, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

2. Nguyễn Thế Q, sinh năm 1982; Trú tại: Thôn 6, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

3. Trần Ngọc T, sinh năm 1993

4. Trần Ngọc C, sinh năm 1994

5. Trần Ngọc M, sinh năm 1971

6. Nguyễn Văn G, sinh năm 1969

Cùng trú tại: Thôn 7, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

7. Nguyễn Tấn C1, sinh năm 1990; Trú tại: B, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

8. Trịnh Ngọc T1, sinh năm 1982

9. Đỗ Văn P, sinh năm 1987

Cùng trú tại: Tổ 2, thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

10. Nguyễn Tấn L, sinh năm 1980; Trú tại: Thôn 5, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Tất cả người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc C nợ Nguyễn Văn Th số tiền 2.300.000 đồng, Th đã nhiều lần gọi điện cho C đòi nợ. Trưa ngày 21/12/2018, C trả cho Th số tiền 2.000.000 đồng, còn 300.000 đồng C hẹn trả sau. Khoảng 18 giờ cùng ngày, Th cùng Nguyễn Văn P đi xe máy ngang qua nhà C thì quay xe lại vào nhà, đòi C trả 300.000 đồng. Hai bên lời qua tiếng lại. Lúc này, C nói Nguyễn Tấn C1 (C) đang nằm xem ti vi trong nhà đi gọi hai người em của C là Trần Ngọc T và Trần Ngọc C đang làm gần đó về. Khi Nguyễn Tấn C1 vừa đi thì P và C xảy ra xô xát. P dùng tay đánh vào mặt C, C chạy về phía tường bên trái nhà (theo hướng nhìn từ ngoài vào) cách chỗ bị đánh khoảng 02m lấy 01 con dao tự chế dài 74cm, vung dao chém theo hướng gần ngang từ phải qua trái. P đưa tay trái lên đỡ thì bị C chém trúng khuỷu tay trái chảy máu. P ngồi xuống ôm tay thì C không đánh P nữa mà quay sang đuổi chém Th. Sau khi đuổi Th không được, C quay lại chỗ P dùng chân mang giày đá vào cằm bên phải của P. Lúc này, T và C chạy về nhưng không tham gia đánh P, còn C khi phát hiện thấy sợi dây chuyền vàng mình đeo trên cổ không còn (theo lời khai không biết bị mất lúc nào) thì cho rằng P hoặc Th đã lấy nên hô lên là P, Th cướp dây chuyền của mình. Sau đó, sự việc được báo cho Công an xã Nâm N’Jang, huyện Đắk Song.

Nhận được tin báo, Trịnh Ngọc T1 (Trưởng Công an xã Nâm N’ Jang) cùng một số Công an viên đến giải quyết vụ việc. Khi tới nơi, T thấy sợi dây chuyền của C dưới nền nhà nhưng yêu cầu giữ nguyên hiện trường để Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song xuống làm việc. Cùng lúc này, Nguyễn Thế Q là anh trai của P nghe tin P bị đánh đã cùng một số người đi đến trước nhà C, chửi bới rồi Q dùng mũ bảo hiểm ném về phía Trần Ngọc T trúng đùi của T gây bầm tím và làm hư 01 điện thoại hiệu OWWO. T1 và lực lượng Công an xã ra giữ trật tự, không chú ý tới sợi dây chuyền, nên khi Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đến khám nghiệm hiện trường không thu giữ được.

Tại Bản Kết luận Giám định pháp y về thương tích số 84/Tgt ngày 27/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Nông kết luận: Nguyễn Văn P bị gãy lồi cầu ngoài xương cánh tay trái, tỉ lệ 21%; Gãy mõm khuỷu xương trụ tay trái gây cứng khớp khuỷu – cẳng tay trái gấp duỗi được trong khoảng trên 50 đến 1450, tỷ lệ 11% cộng lùi bằng 8,69%; Sẹo phần mềm, số lượng ít, kích thước lớn, tỷ lệ 08% cộng lùi bằng 5,62%. Tổng tỷ lệ phần trăm thương tích là: 21% + 8,69% + 5,62% = 35,31 % làm tròn bằng 35%.

Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HSST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc C phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc C 06 (sáu) năm tù. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 14/01/2020, bị cáo kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng, nhưng khung hình phạt quá cao. Bị cáo cho rằng tỷ lệ tổn thương thực tế thấp hơn giám định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Dương Lê S trình bày: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều vi phạm tố tụng và không xem xét các yêu cầu của bị cáo. Do đó, tại giai đoạn phúc thẩm, đề nghị HĐXX trưng cầu giám định lại tỷ lệ thương tích của bị hại, thực nghiệm lại hiện trường đối với hành vi cướp tài sản, giám định tình trạng tâm thần của bị cáo, triệu tập thêm nhân chứng, tiến hành đối chất và xem xét phần trách nhiệm dân sự là bị cáo đã bồi thường cho anh trai người bị hại.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm xác định bị cáo quanh co chối tội, không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là không đúng. Bởi bị cáo vẫn thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo chỉ đề nghị xem xét giảm khung hình phạt do tỷ lệ thương tích giám định là quá cao so với thực tế. Tại phiên tòa hôm nay, đề nghị HĐXX áp dụng thêm điểm s, điểm e, điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Tô Tiến D trình bày: Đồng ý với bản án sơ thẩm về tội danh, nhưng khung hình phạt và mức xử phạt là nặng, không thể hiện được sự khoan hồng của Nhà nước, diễn biến khách quan, đặc biệt là nguyên nhân và tính chất phạm tội. Trong vụ án này, HĐXX cần xem xét đến vấn đề người bị hại và người liên quan đều là tội phạm hình sự, trước đó đã răn đe, dằn mặt, đòi xử lý bị cáo, sau đó đến tận nhà đòi nợ, mới dẫn đến sự việc bị cáo bức xúc gây thương tích cho người bị hại.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh trai bị hại nhưng bị cáo chưa được áp dụng tình tiết giảm nhẹ mà tách vấn đề này ra để giải quyết bằng một vụ án là cực kỳ khó khăn cho bị cáo.

Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục bồi thường thiệt hại, phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do một phần lỗi của bị hại và tình tiết bị cáo góp phần giúp cơ quan có trách nhiệm phát hiện tội phạm để xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các nội dung trong đơn kháng cáo của bị cáo:

[1.1]. Về tội danh và mức hình phạt Vào khoảng 18 giờ ngày 21/12/2018, tại nhà của Trần Ngọc C tọa lạc tại thôn 7, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông, Trần Ngọc C đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm chém trúng khuỷu tay trái và dùng chân đá vào cằm bên phải anh Nguyễn Văn P gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HSST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song kết án bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về mức hình phạt: Trong vụ án này, bị cáo chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ nhặt mà đã dùng dao chém người bị hại. Hành vi của bị cáo là coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác. Sau khi bị chém, bị hại đã ôm tay ngã gục xuống đất, không còn khả năng tự vệ, nhưng bị cáo còn quay lại dùng chân đá tiếp vào người bị hại là thể hiện sự hung hãn, quyết liệt, côn đồ. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi chém anh Nguyễn Văn P của mình, nhưng mức án 06 năm Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo. Do đó, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo.

[1.2]. Về yêu cầu giám định lại tỷ lệ thương tích Sau khi có Kết luận giám định pháp y, cơ quan Cảnh sát điều tra không thông báo kết quả giám định cho bị cáo là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 214 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, bị cáo biết về tỷ lệ thương tích gây ra cho bị hại nhưng không có đơn yêu cầu giám định lại.

Tại phiên tòa ngày 24/12/2019, Tòa án đã hoãn phiên tòa để triệu tập thêm Giám định viên theo đề nghị của bị cáo và người bào chữa. Giám định viên không thể tham gia phiên tòa nhưng Trung tâm Pháp y đã gửi văn bản giải thích các nội dung tại Kết luận giám định là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 316 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Kết luận giám định, công văn trả lời của Trung tâm pháp y, Thông tư số 20/2014/TT-BYT quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, HĐXX xét thấy kết luận giám định của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Nông đã thực hiện đúng quy định pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bị cáo.

[1.3]. Về việc tách hành vi cướp tài sản thành một vụ án khác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều khẳng định sau khi đánh nhau (có lời khai là trong khi đánh nhau) bị cáo phát hiện mất sợi dây chuyền, nên bị cáo cho là T, P lấy của bị cáo. Thực tế sợi dây chuyền bị mất vào thời điểm nào, vị trí nào, T, P giật lấy sợi dây như thế nào bị cáo không xác định được (bút lục 84, 90). Như vậy, việc cho rằng bị cướp sợi dây chỉ là suy đoán của bị cáo.

Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể được lập hồi 23h ngày 21/12/2018 (ngay sau khi xảy ra vụ việc) đã kết luận: Không phát hiện thấy các vùng sau gáy, vùng bên hông phải, bên hông trái và phía trước cổ (vùng đeo dây chuyền) có dấu vết lằn đỏ, trầy xước gì (bút lục 65). Bị cáo cũng không có ý kiến gì về kết luận tại biên bản.

Lời khai của người làm chứng là ông Trịnh Ngọc T1 (đại diện Công an xã): Khi đến hiện trường, bị hại bị thương ngồi bên góc trái nhà, bị cáo chỉ cho ông T1 sợi dây chuyền ở nền nhà, gần xe máy bên tường phải, không bị đứt, giống như là tự tháo xuống (bút lục 133, 134).

Theo biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, các vết máu tại khu vực xảy ra tranh chấp, lời khai của bị cáo, người bị hại và những người làm chứng đều xác định nơi xảy ra tranh chấp là phía bên trái tường nhà (theo hướng nhìn từ ngoài vào), nhưng sợi dây chuyền được phát hiện ở bên phải tường nhà (theo hướng từ ngoài nhìn vào) là không phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án. Bởi ngay sau khi bị chém, P ôm tay ngồi gục tại chỗ, còn T bị bị cáo đuổi chém chạy ra ngoài đường.

Bên cạnh đó, người bị hại khai bị cáo tự tháo sợi dây chuyền ném xuống đất, đồng thời hô “Cướp, cướp”.

Từ các phân tích nêu trên, HĐXX xét thấy chưa đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn P thực hiện hành vi cướp dây chuyền của bị cáo. Việc cơ quan điều tra tách hồ sơ tiếp tục xác minh là đúng quy định.

[1.4]. Đối với yêu cầu thực nghiệm lại hiện trường Ngay sau khi vụ án xảy ra ngày 21/12/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra vụ án là nhà ở của bị cáo, có sự chứng kiến của bà Phan Thị M là mẹ đẻ của bị cáo, ông Trần Ngọc T, ông Nguyễn Tấn L – Phó Công an xã N đại diện chính quyền địa phương. Việc khám nghiệm hiện trường đảm bảo khách quan và đúng trình tự thủ tục luật định. Vì vậy HĐXX không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bị cáo.

[1.5]. Đối với đề nghị giám định tình trạng tâm thần của bị cáo HĐXX xét thấy tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo mới phát sinh yêu cầu này; quá trình thụ lý phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ, hồ sơ bệnh án, phiếu khám chữa bệnh chứng minh bị cáo có dấu hiệu tâm thần, vì vậy HĐXX không có căn cứ chấp nhận.

[1.6]. Đối với yêu cầu triệu tập thêm nhân chứng và tiến hành đối chất Lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng anh Nguyễn Văn T và những người khác đều thể hiện tại thời điểm xảy ra vụ việc, ngoài 3 người này thì không còn ai chứng kiến vụ việc. Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX đã triệu tập thêm người làm chứng theo yêu cầu của bị cáo, tuy nhiên những người này đều khai không biết về sự việc.

Đối với các vấn đề mâu thuẫn trong vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành đối chất nhưng không làm rõ được.

[1.7]. Đối với yêu cầu xem xét lại phần trách nhiệm dân sự Tại phiên tòa sơ thẩm, người bị hại yêu cầu tách phần bồi thường để giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có đủ chứng cứ. HĐXX xét thấy ý kiến của bị hại là tự nguyện, không bị ép buộc, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên chấp nhận là phù hợp.

[1.8]. Đối với hành vi của Nguyễn Thế Q Các biên bản xác minh tại Công an xã đều thể hiện Q đã bỏ đi khỏi địa phương. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục xác minh triệu tập, xử lý hành chính đối với Nguyễn Thế Q sau khi triệu tập được là phù hợp.

[2]. Trong vụ án này còn một số vấn đề sau đây:

[2.1]. Về xác định tư cách tố tụng: Anh Nguyễn Văn T và Nguyễn Thế Q hoàn toàn không có lợi ích, nghĩa vụ gì trong vụ án này, cho nên việc cấp sơ thẩm xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp.

[2.2]. Về áp dụng tình tiết giảm nhẹ: Cấp sơ thẩm áp dụng tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động do hành vi trái pháp luật của bị hại”. Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, không tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án này, các bên đều khai nhận ngay sau khi xảy ra tranh cãi bằng lời nói và xô xát nhẹ (đấm nhau), bị cáo đã lấy dao gây thương tích cho bị hại. Nhưng mâu thuẫn chỉ xảy ra trong thời gian rất ngắn (trong khoảng 2 đến 4 phút) và chưa có xung đột lớn, nên diễn biến khách quan này chưa đủ căn cứ để áp dụng tình tiết “phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động do hành vi trái pháp luật của bị hại” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ này là đã có lợi cho bị cáo.

[2.3]. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, không thành khẩn khai báo nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự”. Tuy nhiên, trong trường hợp bị cáo không đủ điều kiện để áp dụng tình tiết giảm nhẹ thì HĐXX không áp dụng, không cần nhận định trong bản án.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt, sửa một phần bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc C 06 (sáu) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 03/5/2019 đến ngày 14/6/2019.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

384
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2020/HS-PT ngày 06/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:31/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;