Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 25/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 211/2020/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXX-ST ngày 06 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Âu Thị T, sinh năm 1994; có mặt. ĐKHKTT: Cụm 4, xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Địa chỉ: Thôn 4, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị đơn: Anh Bùi Tất H, sinh năm 1991; có mặt.

ĐKHKTT và địa chỉ cư trú: Cụm 4, xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai, nguyên đơn chị Âu Thị T trình bày: Chị và anh Bùi Tất H kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội vào ngày 19/11/2012.

Sau khi kết hôn chị và anh H chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là chị và anh H còn trẻ chưa có kinh tế gia đình nên thường xuyên cãi nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng về quan điểm sống. Từ tháng 5/2017 đến nay vợ chồng sống ly thân. Chị không còn tình cảm với anh H nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Con chung: Chị và anh Bùi Tất H có 02 con chung là cháu Bùi Tất Minh Đ, sinh ngày 14/9/2013 và cháu Bùi Thị Mai A, sinh ngày 06/01/2017. Khi vợ chồng ly thân thì chị nuôi cháu Mai Anh, đến tháng 01/2018 anh H đến nhà mẹ đẻ của chị ở Sơn Dương, Tuyên Quang để đưa cháu Mai Anh về xã Hạ Mỗ, Đan Phượng. Sau đó, chị đã nhiều lần về để đón cháu Mai Anh nH anh H không cho chị đón con. Khi ly hôn chị xin được nuôi cháu Bùi Thị Mai A và để anh H nuôi cháu Bùi Tất Minh Đ, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, về nợ: Chị xác định vợ chồng không có tài sản, công sức với hai bên gia đình và không có nợ chung.

- Theo bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn anh Bùi Tất H trình bày: Anh công nhận thời gian và điều kiện kết hôn như chị Âu Thị T trình bày. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 11/2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mẫu thuẫn là do điều kiện kinh tế của vợ chồng khó khăn dẫn đến cãi vã nhau, bất đồng quan điểm trong sống chung. Đã nhiều lần chị T bỏ nhà đi, sau đó anh và gia đình khuyên bảo nên vợ chồng về đoàn tụ. Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra đỉnh điểm từ khoảng tháng 10/2017 và chị T bỏ đi từ đó đến nay không về nhà anh nữa, cũng từ đó anh không còn quan tâm đến cuộc sống của chị T. Nay chị T xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung như chị T đã trình bày là đúng. Khi ly hôn anh có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, về nợ: Anh Bùi Tất H xác định vợ chồng không có.

Tại phiên tòa, chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H đều giữ nguyên yêu cầu về ly hôn, con chung như đã trình bày trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án đã thực hiện đúng qui định Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhận định giữa chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị T về việc xin ly hôn với anh H. Về con chung: Giao cho chị T nuôi cháu Bùi Thị Mai A, giao cho anh H nuôi cháu Bùi Tất Minh Đ, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản chung, công sức, nợ không có nên không đề nghị giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Âu Thị T có đơn khởi kiện về việc xin ly hôn với anh Bùi Tất H có địa chỉ tại Cụm 4, xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, theo qui định của pháp luật thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Quá trình thụ lý và giảỉ quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ trình tự tố tụng theo qui định để giải quyết vụ án. Tại các phiên hòa giải chị T và anh H không thống nhất được với nhau về việc nuôi con chung nên căn cứ vào Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội vào ngày 19/11/2012 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị T và anh H chung sống hạnh phúc đến tháng 01/2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế của vợ chồng khó khăn, quan điểm sống của hai bên không hòa hợp. Sau đó, vợ chồng đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân, rồi lại đoàn tụ với nhau. Tuy nhiên, từ cuối năm 2017 cuộc sống chung vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng và dẫn đến sống ly thân đến nay. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng đối với anh H không còn nên kiên quyết xin ly hôn, phía anh H cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.

Xét thấy, cuộc sống chung giữa chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, cuộc sống chung không còn tồn tại và mục đích quan hệ hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh H.

[3] Về con chung: Xác định chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H có 02 con chung là cháu Bùi Tất Minh Đ, sinh ngày 14/9/2013 và cháu Bùi Thị Mai A, sinh ngày 06/01/2017. Chị T yêu cầu được nuôi cháu Mai Anh, còn anh H yêu cầu được nuôi cả hai con chung. Tòa án đã tiến hành xác minh và thấy rằng cả hai bên đều có đủ các điều kiện để nuôi con, đối với cháu Mai Anh tuy đã trên ba tuổi nH còn nhỏ nên cần có sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy, giao cháu Mai Anh cho chị T nuôi và giao cháu Đ cho anh H nuôi là phù hợp với các quy định tại các Điều 81, 82 của Luật hôn nhân gia đình. Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, về nợ: Chị Âu Thị T, anh Bùi Tất H đều xác định không có tài sản, công sức và nợ chung nên Hội đồng xét xử không phải xem xét, giải quyết.

[5] Án phí: Chị Âu Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Quyền kháng cáo: Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H có quyền kháng cáo bản án theo qui định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Âu Thị T. Chị Âu Thị T được ly hôn với anh Bùi Tất H.

2. Về con chung: Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H có hai con chung là cháu Bùi Tất Minh Đ, sinh ngày 14/9/2013 và cháu Bùi Thị Mai A, sinh ngày 06/01/2017. Giao cháu Bùi Thị Mai A cho chị Âu Thị T nuôi, giao cháu Bùi Tất Minh Đ cho anh Bùi Tất H nuôi cho đến khi các cháu Bùi Tất Minh Đ và cháu Bùi Thị Mai A đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Tài sản chung, công sức và nợ: Chị Âu Thị T và anh Bùi Tất H xác định không có nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

4. Về án phí: Chị Âu Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Âu Thị T đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014565 ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

5. Quyền kháng cáo: Chị Âu Thị T, anh Bùi Tất H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 25/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;